Tin tức
on Wednesday 26-03-2025 4:09pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trịnh Thị Mỹ Ngà, Ths. Lê Thị Bích Phượng- Olea Fertility Nha Trang, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang
Giới thiệu
Bảo quản phôi bằng phương pháp thuỷ tinh hoá đã được nghiên cứu giúp tăng tỉ lệ sinh sống cộng dồn (Live birth rate - LBR) và cho phép trì hoãn việc chuyển phôi (Embryo transfer - ET) trong các trường hợp có chỉ định y tế, chuyển phôi trữ và xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT). Sự tiến bộ của các phương pháp đông lạnh phôi đã giúp nâng cao cơ hội điều trị cho bệnh nhân. Do đó, các nghiên cứu liên quan đến chuyển phôi trữ (Frozen embryo transfer – FET) hiện nay đang có xu hướng tăng lên, bao gồm các trường hợp như thuỷ tinh hoá phôi tươi hoặc thuỷ tinh hoá phôi dư từ các chu kỳ FET được chỉ định trữ lại. Trữ lại phôi được xem là phương pháp có khả năng làm tăng tỉ lệ mang thai lâm sàng cộng dồn (Clinical pregnancy rate - CPR), giảm nguy cơ đa thai, cho phép sinh thiết lại trong trường hợp chẩn đoán PGT không có kết luận và giảm thiểu chi phí điều trị IVF cho bệnh nhân.
Cho đến nay chỉ có một số ít nghiên cứu báo cáo về ảnh hưởng của việc thuỷ tinh hoá kép (Double vitrification warming - DVW) đối với cùng một phôi, trong trường hợp không có sinh thiết hoặc liên quan đến kết quả lâm sàng. Tuy nhiên điều đáng chú ý là không có nghiên cứu nào nêu ra tỉ lệ trẻ sinh sống sau quy trình thuỷ tinh hoá- rã đông kép khi quy trình thuỷ tinh hoá đầu tiên được thực hiện ở giai đoạn hợp tử (2PN). Thuỷ tinh hoá hợp tử 2PN là một phần quan trọng trong thực hành IVF thông thường ở các quốc gia khi việc nuôi cấy phôi được quản lý bởi chính sách quốc gia. Ở Đức, Thuỵ Sĩ chỉ có một số lượng hạn chế hợp tử 2PN được phép nuôi cấy, các hợp tử 2PN còn lại sẽ được bảo quản lạnh. Nhiều trung tâm IVF trên toàn thế giới có xu hướng thích thuỷ tinh hoá hợp tử 2PN hơn phôi ở giai đoạn phân chia. Do đó việc thực hành DVW liên quan đến hợp tử 2PN và phôi nang có cản trở đến kết quả lâm sàng hay không vẫn là một câu hỏi mở. Vì vậy, S. Makieva và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này để đề cập kết quả chuyển phôi không sinh thiết được thuỷ tinh hoá kép ở hai giai đoạn là hợp tử 2PN và sau đó là phôi nang.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu phân tích trên 407 chu kỳ chuyển đơn phôi nang từ các chu kỳ thuỷ tinh hoá - rã đông và được chia làm hai nhóm: nhóm phôi được thuỷ tinh hoá đơn (Single vitrification warming - SVW, (n=310)) và nhóm phôi được thuỷ tinh hoá kép (DVW, (n=97)) từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 12 năm 2021. Ở nhóm SVW, phôi nang được thuỷ tinh hoá ở giai đoạn ngày 5/6 và được rã đông vào ngày chuyển phôi. Ở nhóm DVW, hợp tử ở giai đoạn 2PN được thuỷ tinh hoá lần đầu, sau đó rã đông để thực hiện nuôi cấy, tiếp tục được thuỷ tinh hoá lần hai vào giai đoạn phôi ngày 5/6 và được rã đông vào ngày chuyển phôi. Tiêu chuẩn loại của nghiên cứu bao gồm: (1) chuyển phôi từ chu kỳ PGT và (2) chu kỳ đông lạnh noãn. Kết quả chính của nghiên cứu là tỉ lệ trẻ sinh sống. Các kết quả phụ được đánh giá là: thai kỳ lâm sàng (thai kỳ có thể xác định được bằng siêu âm ở tối thiểu 8 tuần thai), thai kỳ sinh hóa (mức beta hCG thấp hơn 100 mlU/ml 14 ngày sau ET và nồng độ beta hCG trong huyết thanh giảm nhanh) và tỉ lệ sẩy thai (mất phát hiện có thai lâm sàng đến tuần thứ 22 của thai kỳ).
Kết quả nghiên cứu
1. Đặc điểm chu kỳ chuyển phôi:
407 phôi chuyển trong nghiên cứu này có nguồn gốc từ tổng cộng 272 chu kỳ và các đặc điểm là đồng nhất trên các nhóm bao gồm: tuổi của mẹ, chất lượng phôi khi chuyển, chất lượng phôi trong quá trình đông lạnh, độ nở rộng phôi nang, độ dày nội mạc tử cung giữa hai nhóm. Đặc điểm duy nhất khác nhau giữa 2 nhóm là thời gian từ khi thu nhận noãn đến lúc chuyển phôi (p<0,001). Ở nhóm SVW, phần lớn bệnh nhân thực hiện chuyển phôi trong vòng 3 tháng kể từ khi thu nhận noãn. Ở nhóm DVW, thời gian trên kéo dài từ 7-12 tháng và có tới 28,8% trường hợp thực hiện sau 2 năm kể từ khi thu nhận noãn.
2: Kết quả lâm sàng:
Kết quả của nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thai sinh hóa (17,5% với 13,8%; p= 0, 376), tỉ lệ thai lâm sàng (44,3% với 42,3%; p=0,719) và tỉ lệ trẻ sinh sống (30,9% với 28,7%; p=0,675) tương đương ở 2 nhóm DVW và SVW. Tỉ lệ sẩy thai cũng tương tự với 27,9% ở nhóm DVW và 32,1% ở nhóm SVW (p=0,765).
Nghiên cứu cũng đưa ra những điểm mạnh và hạn chế. Mặc dù nhóm nghiên cứu rất đồng nhất về các đặc điểm trong nghiên cứu bao gồm: các phôi đều được thủy tinh hóa ở cùng một giai đoạn trong mỗi nhóm và được chuyển đơn phôi nang, nhưng đây vẫn là một nghiên cứu hồi cứu. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu cũng không thấy hợp lý với việc thiết kế một nghiên cứu tiến cứu khi đông lạnh phôi hai lần.
Kết luận
Đây là nghiên cứu đầu tiên đã đánh giá tác động của quá trình thủy tinh hóa kép được thực hiện ở giai đoạn hợp tử và giai đoạn phôi nang đối với kết quả lâm sàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy chuyển đơn phôi nang sau khi thủy tinh hóa kép không có sự khác biệt với thủy tinh hóa đơn.
TLTK: Makieva, S., Sachs, M. K., Xie, M., Velasco, A., El-Hadad, S., Kalaitzopoulos, D. R., ... & Leeners, B. (2023). Double vitrification and warming does not compromise the chance of live birth after single unbiopsied blastocyst transfer. Human Reproduction Open, 2023(4), hoad037.
Giới thiệu
Bảo quản phôi bằng phương pháp thuỷ tinh hoá đã được nghiên cứu giúp tăng tỉ lệ sinh sống cộng dồn (Live birth rate - LBR) và cho phép trì hoãn việc chuyển phôi (Embryo transfer - ET) trong các trường hợp có chỉ định y tế, chuyển phôi trữ và xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT). Sự tiến bộ của các phương pháp đông lạnh phôi đã giúp nâng cao cơ hội điều trị cho bệnh nhân. Do đó, các nghiên cứu liên quan đến chuyển phôi trữ (Frozen embryo transfer – FET) hiện nay đang có xu hướng tăng lên, bao gồm các trường hợp như thuỷ tinh hoá phôi tươi hoặc thuỷ tinh hoá phôi dư từ các chu kỳ FET được chỉ định trữ lại. Trữ lại phôi được xem là phương pháp có khả năng làm tăng tỉ lệ mang thai lâm sàng cộng dồn (Clinical pregnancy rate - CPR), giảm nguy cơ đa thai, cho phép sinh thiết lại trong trường hợp chẩn đoán PGT không có kết luận và giảm thiểu chi phí điều trị IVF cho bệnh nhân.
Cho đến nay chỉ có một số ít nghiên cứu báo cáo về ảnh hưởng của việc thuỷ tinh hoá kép (Double vitrification warming - DVW) đối với cùng một phôi, trong trường hợp không có sinh thiết hoặc liên quan đến kết quả lâm sàng. Tuy nhiên điều đáng chú ý là không có nghiên cứu nào nêu ra tỉ lệ trẻ sinh sống sau quy trình thuỷ tinh hoá- rã đông kép khi quy trình thuỷ tinh hoá đầu tiên được thực hiện ở giai đoạn hợp tử (2PN). Thuỷ tinh hoá hợp tử 2PN là một phần quan trọng trong thực hành IVF thông thường ở các quốc gia khi việc nuôi cấy phôi được quản lý bởi chính sách quốc gia. Ở Đức, Thuỵ Sĩ chỉ có một số lượng hạn chế hợp tử 2PN được phép nuôi cấy, các hợp tử 2PN còn lại sẽ được bảo quản lạnh. Nhiều trung tâm IVF trên toàn thế giới có xu hướng thích thuỷ tinh hoá hợp tử 2PN hơn phôi ở giai đoạn phân chia. Do đó việc thực hành DVW liên quan đến hợp tử 2PN và phôi nang có cản trở đến kết quả lâm sàng hay không vẫn là một câu hỏi mở. Vì vậy, S. Makieva và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này để đề cập kết quả chuyển phôi không sinh thiết được thuỷ tinh hoá kép ở hai giai đoạn là hợp tử 2PN và sau đó là phôi nang.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu phân tích trên 407 chu kỳ chuyển đơn phôi nang từ các chu kỳ thuỷ tinh hoá - rã đông và được chia làm hai nhóm: nhóm phôi được thuỷ tinh hoá đơn (Single vitrification warming - SVW, (n=310)) và nhóm phôi được thuỷ tinh hoá kép (DVW, (n=97)) từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 12 năm 2021. Ở nhóm SVW, phôi nang được thuỷ tinh hoá ở giai đoạn ngày 5/6 và được rã đông vào ngày chuyển phôi. Ở nhóm DVW, hợp tử ở giai đoạn 2PN được thuỷ tinh hoá lần đầu, sau đó rã đông để thực hiện nuôi cấy, tiếp tục được thuỷ tinh hoá lần hai vào giai đoạn phôi ngày 5/6 và được rã đông vào ngày chuyển phôi. Tiêu chuẩn loại của nghiên cứu bao gồm: (1) chuyển phôi từ chu kỳ PGT và (2) chu kỳ đông lạnh noãn. Kết quả chính của nghiên cứu là tỉ lệ trẻ sinh sống. Các kết quả phụ được đánh giá là: thai kỳ lâm sàng (thai kỳ có thể xác định được bằng siêu âm ở tối thiểu 8 tuần thai), thai kỳ sinh hóa (mức beta hCG thấp hơn 100 mlU/ml 14 ngày sau ET và nồng độ beta hCG trong huyết thanh giảm nhanh) và tỉ lệ sẩy thai (mất phát hiện có thai lâm sàng đến tuần thứ 22 của thai kỳ).
Kết quả nghiên cứu
1. Đặc điểm chu kỳ chuyển phôi:
407 phôi chuyển trong nghiên cứu này có nguồn gốc từ tổng cộng 272 chu kỳ và các đặc điểm là đồng nhất trên các nhóm bao gồm: tuổi của mẹ, chất lượng phôi khi chuyển, chất lượng phôi trong quá trình đông lạnh, độ nở rộng phôi nang, độ dày nội mạc tử cung giữa hai nhóm. Đặc điểm duy nhất khác nhau giữa 2 nhóm là thời gian từ khi thu nhận noãn đến lúc chuyển phôi (p<0,001). Ở nhóm SVW, phần lớn bệnh nhân thực hiện chuyển phôi trong vòng 3 tháng kể từ khi thu nhận noãn. Ở nhóm DVW, thời gian trên kéo dài từ 7-12 tháng và có tới 28,8% trường hợp thực hiện sau 2 năm kể từ khi thu nhận noãn.
2: Kết quả lâm sàng:
Kết quả của nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thai sinh hóa (17,5% với 13,8%; p= 0, 376), tỉ lệ thai lâm sàng (44,3% với 42,3%; p=0,719) và tỉ lệ trẻ sinh sống (30,9% với 28,7%; p=0,675) tương đương ở 2 nhóm DVW và SVW. Tỉ lệ sẩy thai cũng tương tự với 27,9% ở nhóm DVW và 32,1% ở nhóm SVW (p=0,765).
Nghiên cứu cũng đưa ra những điểm mạnh và hạn chế. Mặc dù nhóm nghiên cứu rất đồng nhất về các đặc điểm trong nghiên cứu bao gồm: các phôi đều được thủy tinh hóa ở cùng một giai đoạn trong mỗi nhóm và được chuyển đơn phôi nang, nhưng đây vẫn là một nghiên cứu hồi cứu. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu cũng không thấy hợp lý với việc thiết kế một nghiên cứu tiến cứu khi đông lạnh phôi hai lần.
Kết luận
Đây là nghiên cứu đầu tiên đã đánh giá tác động của quá trình thủy tinh hóa kép được thực hiện ở giai đoạn hợp tử và giai đoạn phôi nang đối với kết quả lâm sàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy chuyển đơn phôi nang sau khi thủy tinh hóa kép không có sự khác biệt với thủy tinh hóa đơn.
TLTK: Makieva, S., Sachs, M. K., Xie, M., Velasco, A., El-Hadad, S., Kalaitzopoulos, D. R., ... & Leeners, B. (2023). Double vitrification and warming does not compromise the chance of live birth after single unbiopsied blastocyst transfer. Human Reproduction Open, 2023(4), hoad037.
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK