Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 21-03-2025 6:53am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Huỳnh Yến Vy – IVFMD Phú Nhuận – Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
 
Hiện nay trên toàn thế giới có đến khoảng 15% các cặp vợ chồng vô sinh, trong đó có hơn nửa số trường hợp vô sinh do yếu tố nam giới. Trong đó, có khoảng 10 – 15% nam giới vô sinh do không có tinh trùng và khoảng 60% trường hợp do rối loạn chức năng tinh hoàn, 30% các trường hợp vô sinh nam do bất thường về gen với tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 2% đến 10%. Một trong những nguyên nhân về bất thường ở gen gây ra vô sinh nam là vi mất đoạn gen AZF (Azoospermia factor - AZF), một bất thường về mặt di truyền, xảy ra ở khoảng 1 trong 4000 nam giới khỏe mạnh tại các vùng cụ thể trên cánh dài của nhiễm sắc thể Y, được gọi là các locus AZF (AZFa, AZFb và AZFc). Những bất thường này có thể dẫn đến suy sinh tinh và ảnh hưởng đến 7,5% nam giới vô sinh. Trong số các locus AZF, AZFc là locus xảy ra đột biến phổ biến nhất, xảy ra ở khoảng 80% các trường hợp. Ngược lại, các trường hợp mất đoạn kết hợp AZFa, AZFb và AZFb+c xảy ra ở lần lượt 0,5 – 4%, 1 – 5% và 1 – 3% trong số tất cả các trường hợp. Trong trường hợp mất đoạn AZFa dẫn đến không có sự hiện diện của các tế bào mầm sinh tinh trong lồng ống sinh tinh, gây ra tình trạng suy sinh tinh nghiêm trọng. Đột biến mất doạn AZFb gây ảnh hưởng đến quá trình giảm phân, phân chia và biệt hóa tinh trùng của tế bào sinh tinh. Cấu trúc palindromic là những vùng trình tự lặp có kích thước dài của AZFc là những cấu trúc có thể gây ra tình trạng bộ gen sắp xếp thông qua sự tái tổ hợp không tương hỗ trong quá trình giảm phân, dẫn đến vi mất đoạn AZFc. Những bệnh nhân bị vi mất đoạn AZFc biểu hiện lâm sàng thông qua kết quả tinh dịch đồ bao gồm oligoasthenozoospermia – tinh trùng ít và yếu, oligozoospermia – tinh trùng ít, dưới 15 triệu/mL và azoospermia - vô tinh. Đối với những bệnh nhân không có tinh trùng trong mẫu xuất tinh, có vi mất đoạn AZFc, có thể thực hiện phương pháp thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn bằng vi phẫu (microTESE) với tỉ lệ thành công cao từ 60% đến 75%. Ngoài ra, đối với những bệnh nhân vi mất đoạn AZFc được chỉ định thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection -ICSI) sử dụng mẫu xuất tinh hoặc mẫu thủ thuật để tối ưu hóa kết quả điều trị.
 
Mục tiêu: Nghiên cứu thực hiện để đánh giá các yếu tố độc lập ảnh hưởng đến kết quả ICSI với các nguồn tinh trùng khác nhau ở những bệnh nhân có vi mất đoạn AZFc với mục đích giúp tối ưu hóa các chiến lược điều trị cho những bệnh nhân này để cải thiện kết quả ICSI.
 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu từ tháng 2 năm 2015 đến tháng 12 năm 2023 được thực hiện trên 634 chu kỳ ICSI ở 634 cặp vợ chồng với việc chuyển 1005 phôi, chia thành hai nhóm:
  • Nhóm 1 - cặp vợ chồng sử dụng mẫu tinh trùng từ việc xuất tinh (ejaculated spermatozoa - ES): 398 chu kỳ ICSI
  • Nhóm 2 – cặp vợ chồng sử dụng mẫu tinh trùng thu nhận từ vi phẫu (microTESE) (testicular spermatozoa - TS): 236 chu kỳ ICSI
Đối với bệnh nhân nam, máu ngoại vi được thu nhận và tiến hành phản ứng chuỗi polymerase các vị trí gắn thẻ trình tự (subjected to sequence-tagged sites - STS) để phát hiện các dấu hiệu STS đặc hiệu của AZFc (sY254 và sY255) và xác nhận các vi mất đoạn hoàn toàn của AZFc.
Tiêu chí chọn: (1) nam giới có vi mất đoạn AZFc hoàn toàn và (2) các cặp đôi được điều trị bằng ICSI sử dụng ES hoặc TS.
Tiêu chí loại: (1) các chu kỳ liên quan đến noãn đông lạnh – rã đông; (2) các chu kỳ trong đó tất cả các phôi đều được đông lạnh và không được chuyển; (3) các chu kỳ mất theo dõi; và (4) thực hiện nhiều chu kỳ ICSI.
 
Kết quả:
Về kết quả phân tích tinh dịch đồ, 74 người được chẩn đoán cryptozoospermia – không có tinh trùng trong mẫu tươi nhưng có tinh trùng trong mẫu sau ly tâm và 324 người được chẩn đoán oligozoospermia hoặc asthenozoospermia trong nhóm ES. Tổng số tinh trùng trung bình là 2,51 triệu, mật độ và khả năng di động tiến tới (progressive motility - PR%) lần lượt là 0,79 triệu/mL và 5,94%.
Về kết quả phôi học, nhóm tinh trùng từ việc phẫu thuật TS: tỷ lệ thụ tinh thấp hơn (31,61% so với 59,81%, P  < 0,001), tỷ lệ phôi tốt thấp hơn (45,75% so với 57,61%, P  < 0,001), tỉ lệ hình thành phôi nang thấp hơn (22,40% so với 34,49%, P  < 0,001) so với nhóm thu nhận tinh trùng từ ES.
Về kết quả lâm sàng khi so sánh giữa hai nhóm, nhóm ES có tỷ lệ làm tổ (32,40 so với 23,97%, P  = 0,008), tỷ lệ mang thai lâm sàng (49,75% so với 29,24% P  < 0,001) và tỷ lệ sinh sống tích lũy (44,47% so với 20,34%, P  < 0,001) cao hơn so với nhóm TS.
Ngoài ra, tỷ lệ chu kỳ không có phôi để chuyển (no-embryo-suitable-for-transfer cycle rate -  NESTR) cao hơn ở nhóm TS so với nhóm ES (31,78% so với 14,57%, P  < 0,001). Tỷ lệ sẩy thai không khác biệt đáng kể giữa các nhóm (14,14% so với 15,94%, P  = 0,715).
Khi phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy các yếu tố như sử dụng tinh trùng từ phẫu thuật TS, vô sinh do bất thường tử cung ở phụ nữ, nồng độ LH của nam giới và tuổi mẹ tăng có liên quan độc lập với tỷ lệ sinh sống tích lũy thấp và việc giảm tỷ lệ mang thai lâm sàng trên mỗi chu kỳ ICSI.
Khi phân tích hồi quy tuyến tính đa biến, tỷ lệ thụ tinh giảm liên quan đến việc sử dụng tinh trùng từ phẫu thuật TS. Tuy nhiên, việc sử dụng TS, bất thường tử cung ở phụ nữ, vô sinh ở phụ nữ do nhiều nguyên nhân và tuổi mẹ là những yếu tố độc lập làm tăng tỉ lệ không có phôi để chuyển.
 
Kết luận: Vi mất đoạn AZFc trên nhiễm sắc thể Y là một đột biến DNA có thể làm gián đoạn quá trình sản xuất tinh trùng. Sự thành công của một chu kỳ thụ tinh ống nghiệm đối với bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi đột biến AZF phụ thuộc vào các yếu tố như loại tinh trùng được sử dụng (tinh trùng được thu nhận từ tinh hoàn hoặc tinh trùng xuất tinh), kích thước tinh hoàn, mức độ hormone và tuổi của mẹ. Trong đó, nguồn gốc tinh trùng là một yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến kết quả điều trị của những cặp vợ chồng bị vô sinh do đột biến AZF. Tinh trùng thông qua việc xuất tinh có khả năng đem lại kết quả điều trị tốt hơn, đặc biệt trong trường hợp nam giới có sự mất đoạn AZFc. Do đó, việc lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên từng trường hợp cụ thể để đạt được kết quả tối ưu.
 
Tài liệu tham khảo: Fang, Y., Zhang, Z., Cheng, Y., Huang, Z., Pan, J., Xue, Z., ... & Hong, K. (2024). Independent factors associated with intracytoplasmic sperm injection outcomes in patients with complete azoospermia factor c microdeletions. Human Reproduction Open2024(4), hoae071.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK