Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 12-03-2025 9:32am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đoàn Thị Thùy Dương – IVF Tâm Anh
 
Giới thiệu
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) được xem như phương pháp điều trị phổ biến để khắc phục tình trạng vô sinh do yếu tố nam, trong khi đó, thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) thường được chỉ định cho các trường hợp vô sinh không do yếu tố nam, bao gồm lạc nội mạc tử cung, vô sinh không rõ nguyên nhân và yếu tố ống dẫn trứng.

Để đạt được tỉ lệ thành công cao trên mỗi lần chuyển phôi, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm xác định phôi có chất lượng tốt nhất. Trong đó, phương pháp quan sát động học phát triển phôi bằng hệ thống tủ Timelapse giúp đánh giá phôi liên tục mà không cần lấy phôi ra khỏi tủ, điều này cung cấp môi trường nuôi cấy phôi ổn định, từ đó có thể xác định phôi phát triển tốt. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng thời gian phát triển phôi có thể bị ảnh hưởng bởi phương pháp thụ tinh, trong đó, phôi từ IVF có thời gian phát triển dài hơn so với ICSI.
Người ta cho rằng ICSI có thể ngăn ngừa khoảng 30% các trường hợp thất bại thụ tinh, giúp gia tăng đáng kể tỉ lệ thụ tinh và mang thai. Tuy nhiên, khi đánh giá hiệu quả ICSI so với IVF ở những người phụ nữ lớn tuổi, có dự trữ buồng trứng giảm và số lượng noãn ít thì nhận thấy rằng ICSI không cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sinh con sống.

Chỉ định về việc thực hiện IVF hay ICSI chủ yếu dựa trên yếu tố tinh trùng. Tuy nhiên, trong trường hợp không do yếu tố nam thì ICSI có lợi hơn IVF hay không vẫn là vấn đề tranh cãi. Do đó, nghiên cứu này sẽ đánh giá phương pháp thụ tinh có ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi hay không ở nhóm bệnh nhân mắc hội chứng buồng trứng đa nang (Polycystic Ovary Syndrome – PCOS).
 
Phương pháp
Nghiên cứu được thực hiện trên 2645 chu kì điều trị và lấy được 11.471 noãn thụ tinh từ năm 2018 đến 2022. Nghiên cứu được chia thành 2 nhóm, nhóm được chỉ định thực hiện IVF và nhóm thực hiện ICSI. Để xác định phương pháp tốt nhất ở các trường hợp vô sinh không do yếu tố nam, ở mỗi bệnh nhân sẽ được thu nhận 2 noãn và chia thành 2 nhóm: nhóm thực hiện IVF và nhóm thực hiện ICSI. Sự phát triển của phôi được theo dõi bằng tủ cấy Time-lapse và sẽ thực hiện chuyển phôi ở ngày 3 hoặc ngày 5.

Kết quả
Nghiên cứu cho thấy so với ICSI, nhóm thụ tinh bằng IVF có nhiều trường hợp thụ tinh bình thường hơn (98% so với 89,9%, p = 0,001), nhiều phôi đủ điều kiện để chuyển hoặc đông lạnh hơn (92% so với 83,5%, p = 0,001) và ít phôi bị loại bỏ hơn (8% so với 16,5%, p = 0,00). Tuy nhiên nhóm IVF lại có nhiều trường hợp được báo cáo là có phôi phân mảnh ở giai đoạn phôi phân chia hơn so với nhóm ICSI (89,6% so với 86,2%, p < 0,001).

Khi phân tích nhóm noãn chia đôi được điều trị bằng ICSI hoặc IVF thì nhận thấy rằng tốc độ phát triển phôi ở nhóm ICSI nhanh hơn IVF ở mọi thời điểm, bắt đầu từ giai đoạn 2PN đến giai đoạn bắt đầu có khoang phôi (time to starting blastulation - tSB). Ngoài ra, nhóm ICSI có điểm KIDScores cao hơn (3,68 so với 3,35, p < 0,001) và nhiều phôi đông lạnh hơn (34,2% so với 28,2%, p = 0,02) so với nhóm IVF.

Khi phân tích điểm KIDScores dựa trên nguyên nhân gây vô sinh ở nhóm noãn chia đôi thì ở nhóm PCOS không rụng trứng có KIDScores của ICSI cao hơn đáng kể so với IVF (4,02 so với 3,37, p < 0,001) và không có sự khác biệt giữa các nhóm còn lại (lạc nội mạc tử cung, yếu tố nam nhẹ, yếu tố ống dẫn trứng và vô sinh không rõ nguyên nhân).
 
Bàn luận
Nghiên cứu cho thấy ở nhóm IVF có tỉ lệ phôi 2PN và nhiều phôi khả dụng hơn so với nhóm ICSI, điều này có thể do khi thực hiện IVF, tinh trùng tiếp xúc với chất tiết của tế bào cumulus cho phép cải thiện phản ứng thể cực đầu, khả năng hoạt động của tinh trùng và hoạt động của ty thể. Trong khi đó, ICSI có thể gây tổn thương cho noãn. Ngoài ra, phôi thực hiện IVF có nhiều mảnh vỡ hơn ICSI, nguyên nhân có thể do các tế bào chết theo chương trình gây ra sự phân mảnh trong các chu kì IVF. Ngoài ra, tốc độ phát triển phôi ở nhóm ICSI nhanh hơn so với nhóm IVF, điều này có thể do phôi ICSI có điểm bắt đầu thụ tinh sớm hơn phôi IVF.

Nghiên cứu còn chỉ ra rằng ICSI có lợi hơn so với IVF ở những bệnh nhân PCOS do có thể khắc phục các trở ngại về chất lượng noãn. Các yếu tố như kháng insulin, cường androgen và rối loạn chuyển hóa năng lượng ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của noãn và phôi trong PCOS. ICSI giúp giảm tác động của môi trường vi mô bất lợi và điều chỉnh sự biểu hiện gen liên quan đến chất lượng noãn. Ngoài ra, ICSI cũng giúp vượt qua những vấn đề về màng trong suốt ở những bệnh nhân PCOS, từ đó có thể cải thiện kết quả điều trị.
 
Kết luận
ICSI được đề xuất như phương pháp thụ tinh cho nhóm phụ nữ PCOS, tạo ra phôi KIDScores cao hơn. Việc loại bỏ tế bào cumulus trong ICSI có thể giúp loại bỏ rối loạn nội tiết tố tiêu cực bao quanh noãn trong PCOS.
 
Nguồn: Shibli Abu Raya, Y., Aslih, N., Atzmon, Y., Sharqawi, M., Shavit, M., Bilgory, A., & Shalom-Paz, E. (2025). Non-Male Factor Only—ICSI Can Overcome Oocyte Factor in PCOS Patients. Journal of Clinical Medicine, 14(1), 244.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

TP. Hồ Chí Minh, Thứ Bảy ngày 31 . 05 . 2025

Năm 2020

Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK