Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 28-02-2025 2:29am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đoàn Thị Thùy Dương – IVF Tâm Anh
 
Giới thiệu
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) được giới thiệu lần đầu vào năm 1992 và được xem là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đầy hứa hẹn. Trước đây, ICSI được chỉ định cho các trường hợp vô sinh do yếu tố nam, nhưng hiện tại ICSI đã được áp dụng cho các trường hợp vô sinh do yếu tố nữ như noãn kém chất lượng, thất bại thụ tinh hoặc thụ tinh kém trong các chu kì IVF trước đó, vô sinh không rõ nguyên nhân,…
Chất lượng phôi kém là một trong những nguyên nhân làm giảm tỉ lệ thành công của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của phôi, trong đó có các gốc oxy hóa tự do (reactive oxygen species - ROS). Việc sản xuất tinh trùng quá mức và apoptosis trong quá trình thụ tinh ống nghiệm có thể làm tăng nồng độ ROS. Việc tiếp xúc với ROS có thể làm thoi vô sắc của noãn mất ổn định, bất thường nhiễm sắc thể, telomere ngắn lại, từ đó làm giảm tỉ lệ thụ tinh, phôi phát triển kém và cuối cùng làm giảm tỉ lệ thành công trong các thai kì lâm sàng.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ICSI có thể cải thiện tỉ lệ thành công sau khi thực hiện IVF cổ điển thất bại, tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng ICSI không cải thiện tỉ lệ sinh con ở những bệnh nhân vô sinh không phải do yếu tố nam. Do đó, mục tiêu của bài nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của việc thực hiện ICSI đối với kết quả phôi học ở những bệnh nhân có phôi phát triển kém trong chu kì IVF cổ điển trước đó.
 
Phương pháp
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 6 năm 2023 ở các cặp vợ chồng có phôi ngày 3 phát triển kém (có 2 tiền nhân (2PN), < 6 phôi bào và phôi phân mảnh >50%) và không có phôi nang để chuyển trong chu kì chọc hút đầu tiên. Kết quả chính là tỉ lệ sinh con sống tích lũy (Cumulative live birth rate - CLBR). Ngoài ra, các kết quả phụ gồm tỉ lệ thai lâm sàng tích lũy (cumulative clinical pregnancy rate - CCPR), tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ sẩy thai.
 
Kết quả
Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ phôi phân chia, tỉ lệ phôi ngày 3 hữu dụng, tỉ lệ phôi ngày 3 tốt, tỉ lệ hình thành phôi nang và tỉ lệ phôi nang hữu dụng giữa nhóm ICSI và IVF. Tuy nhiên, nhóm ICSI có tỉ lệ thụ tinh thấp hơn đáng kể trong chu kì thứ 2 (60,8% so với 70,4%; p  < 0,001) và trong tất cả các chu kì (60,0% so với 71,7%, p  < 0,001) so với nhóm IVF. Không có sự khác biệt về CLBR, CCPR, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ sẩy thai giữa hai nhóm.
Về kết quả lâm sàng, ở chu kì thứ 2 đến thứ 7, tỉ lệ mang thai lâm sàng và tỉ lệ sinh con sống lần lượt là 59,7% và 58,3%, 19,4% và 16,7%, 11,3% và 10,4%, 3,2% và 4,2%, 4,8% và 6,3% và 1,6% và 4,2% trong nhóm ICSI. Trong chu kỳ chuyển phôi thứ 2 đến thứ 4, tỉ lệ mang thai lâm sàng và tỉ lệ sinh con sống lần lượt là 75,0% và 62,9%, 18,8% và 28,6% và 6,3% và 8,6% trong nhóm IVF.
 
Bàn luận
Kết quả cho thấy ICSI không cải thiện chỉ số như tỉ lệ phôi phân chia, tỉ lệ hình thành phôi nang, tỉ lệ mang thai hay sinh con sống so với IVF cổ điển. Bên cạnh đó, tỉ lệ thụ tinh ở nhóm ICSI thấp hơn đáng kể ở chu kì chọc hút thứ 2. Các yếu tố như tuổi mẹ và chất lượng phôi chính là những nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ sảy thai cao ở nhóm ICSI.
Nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế. Thứ nhất, đây là nghiên cứu hồi cứu nên có thể dẫn đến việc lựa chọn bệnh nhân do dữ liệu ban đầu không đồng đều. Thứ hai là số lượng bệnh nhân còn hạn chế. Thứ ba, vì nghiên cứu chỉ thực hiện trên hai trung tâm lớn của Trung Quốc nên kết quả không thể đại diện cho quần thể lớn hơn. Do đó, cần có các nghiên cứu lâm sàng về chia đôi noãn, đa trung tâm, quy mô lớn và ngẫu nhiên ở các quần thể khác nhau để đảm bảo kết quả khách quan nhất.
 
Kết luận
Nghiên cứu cho thấy việc chuyển sang ICSI không có lợi cho những bệnh nhân có phôi phát triển kém trong chu kì IVF cổ điển trước đó và làm giảm tỉ lệ thụ tinh. Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân có thể sinh con sống trong chu kì thứ 2.
 
Nguồn: Liu, S., Zhong, J., Jiang, Y., Wang, L., Luo, Y., Luo, B., & Yang, Z. (2025). Switching to intracytoplasmic sperm injection provides no benefit in couples of poor embryonic development in the previous in vitro fertilization cycle. Human Fertility, 28(1), 2442451.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

Năm 2020
Năm 2020

New World Saigon hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 06 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK