Tin tức
on Wednesday 19-02-2025 9:55am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đoàn Thị Thùy Dương – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Hormone kháng Mullerian (AMH) được tổng hợp bởi các nang tiền hốc và các nang có hốc nhỏ, đóng vai trò quan trọng trong điều hòa phát triển nang noãn. Do đó, nồng độ AMH có thể giúp đánh giá dự trữ buồng trứng và khả năng đáp ứng với các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) là rối loạn nội tiết phổ biến, ảnh hưởng 5–18% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đặc trưng bởi rối loạn rụng trứng, cường androgen và rối loạn chuyển hóa. Phụ nữ mắc PCOS có nồng độ AMH cao gấp 2–4 lần so với người bình thường, có thể dẫn đến ngừng phát triển nang noãn do ức chế FSH và giảm tổng hợp estradiol. Tuy nhiên, mối liên quan giữa AMH và kết quả mang thai ở phụ nữ mắc PCOS sau khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm/ tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (IVF/ICSI) vẫn còn gây tranh cãi. Một số nghiên cứu cho thấy AMH cao có lợi cho thai kỳ, trong khi nghiên cứu khác lại không tìm thấy mối liên hệ hoặc thậm chí ghi nhận AMH cao có thể làm giảm tỷ lệ sinh sống (LBR). Do đó, nghiên cứu này đánh giá mối tương quan giữa AMH và kết quả mang thai ở phụ nữ PCOS sau IVF/ICSI.
Phương pháp
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 6 năm 2023 ở những người phụ nữ vô sinh mắc hội chứng buồng trứng đa nang trong độ tuổi từ 20 đến 40. Những người tham gia được chia thành ba nhóm theo ngưỡng phân vị thứ 25 và 75 của hormone kháng Mullerian: thấp (≤ 4,98 ng/mL, n = 1198), trung bình (4,98 − 10,65 ng/mL, n = 2346) và cao (≥ 10,65 ng/mL, n = 1175). Kết quả đánh giá bao gồm tỉ lệ con sinh sống, tỉ lệ sẩy thai, tỉ lệ mang thai lâm sàng và tỉ lệ sinh con sống tích lũy.
Kết quả
Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS) tăng dần từ AMH thấp đến cao, lần lượt là 0,9%; 0,8% và 2% (P=0,004). Số lượng noãn thu được và phôi chất lượng tăng lên đáng kể từ nhóm AMH thấp đến AMH cao, nhưng không có sự khác biệt về tỉ lệ thụ tinh, số lượng và loại phôi được chuyển trong các chu kì chuyển phôi tươi. Tỉ lệ chuyển phôi tươi giảm dần từ nhóm AMH thấp đến AMH cao, lần lượt là 52,4%; 39,0% và 27,1% (P<0,001).
Về kết quả lâm sàng, tỉ lệ trẻ sinh sống giảm dần ở nhóm AMH thấp đến AMH cao, lần lượt là 39,8%; 35,9% và 30,4% (P=0,017). Tỉ lệ sẩy thai tăng đáng kể từ nhóm AMH thấp đến AMH cao, lần lượt là 11,3%; 17,1% và 21,8% (P=0,018). Không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ mang thai lâm sàng ( P = 0,204) hoặc tỷ lệ sinh con sống tích lũy ( P = 0,423) giữa các nhóm.
Khi phân tích hồi quy logistic đa biến thì nhận thấy rằng tỉ lệ trẻ sinh sống giảm ở nhóm AMH cao so với nhóm AMH thấp (OR: 0,629; 95% CI: 0,460–0,860). Ngoài ra, tỉ lệ sẩy thai ở nhóm AMH trung bình (OR: 1,592, 95% CI: 1,017–2,490) và cao (OR: 2,045, 95% CI: 1,152–3,633) tăng đáng kể so với nhóm AMH thấp. Không có mối liên hệ giữa nồng độ AMH và tỉ lệ sinh con sống tích lũy.
Biện luận
Kết quả cho thấy AMH cao làm giảm tỉ lệ trẻ sinh sống và tăng tỉ lệ sẩy thai sau khi chuyển phôi tươi. Điều này có thể do AMH cao làm ảnh hưởng đến độ dày nội mạc tử cung, làm giảm chức năng nội mạc và ảnh hưởng khả năng làm tổ của phôi. Mặc dù tỉ lệ sinh con sống thấp hơn ở nhóm AMH cao so với AMH cao nhưng tỉ lệ sinh con sống tích lũy lại tương đương giữa các nhóm. Điều này chỉ ra rằng phụ nữ mắc PCOS có nồng độ AMH cao có thể cân nhắc thực hiện chuyển phôi trữ (FET), do số lượng phôi chất lượng tốt tăng lên ở nhóm AMH cao.
Nghiên cứu có một số hạn chế như đây là nghiên cứu hồi cứu và thực hiện tại một trung tâm duy nhất, nên kết quả có thể không khách quan. Do đó, cần có các nghiên cứu tiến cứu quy mô lớn để xác nhận những phát hiện này và hiểu rõ hơn về vai trò của AMH trong quá trình sinh bệnh PCOS.
Kết luận
Nồng độ AMH cao là yếu tố giúp tiên lượng tỉ lệ sinh con sống sau khi chuyển phôi tươi ở những người phụ nữ mắc PCOS ở độ tuổi từ 20 đến 40 khi đang thực hiện IVF/ICSI, và có liên quan đến việc tăng tỉ lệ sẩy thai ở những bệnh nhân này.
Nguồn: Zhao, F., Wen, D., Zeng, L., Wang, R., Wang, D., Xu, H., ... & Chi, H. (2025). High anti-Müllerian hormone level as a predictor of poor pregnancy outcomes in women with polycystic ovary syndrome undergoing in vitro fertilization/intracytoplasmic sperm injection: a retrospective cohort study. Reproductive Biology and Endocrinology: RB&E, 23, 15.
Giới thiệu
Hormone kháng Mullerian (AMH) được tổng hợp bởi các nang tiền hốc và các nang có hốc nhỏ, đóng vai trò quan trọng trong điều hòa phát triển nang noãn. Do đó, nồng độ AMH có thể giúp đánh giá dự trữ buồng trứng và khả năng đáp ứng với các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) là rối loạn nội tiết phổ biến, ảnh hưởng 5–18% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đặc trưng bởi rối loạn rụng trứng, cường androgen và rối loạn chuyển hóa. Phụ nữ mắc PCOS có nồng độ AMH cao gấp 2–4 lần so với người bình thường, có thể dẫn đến ngừng phát triển nang noãn do ức chế FSH và giảm tổng hợp estradiol. Tuy nhiên, mối liên quan giữa AMH và kết quả mang thai ở phụ nữ mắc PCOS sau khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm/ tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (IVF/ICSI) vẫn còn gây tranh cãi. Một số nghiên cứu cho thấy AMH cao có lợi cho thai kỳ, trong khi nghiên cứu khác lại không tìm thấy mối liên hệ hoặc thậm chí ghi nhận AMH cao có thể làm giảm tỷ lệ sinh sống (LBR). Do đó, nghiên cứu này đánh giá mối tương quan giữa AMH và kết quả mang thai ở phụ nữ PCOS sau IVF/ICSI.
Phương pháp
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 6 năm 2023 ở những người phụ nữ vô sinh mắc hội chứng buồng trứng đa nang trong độ tuổi từ 20 đến 40. Những người tham gia được chia thành ba nhóm theo ngưỡng phân vị thứ 25 và 75 của hormone kháng Mullerian: thấp (≤ 4,98 ng/mL, n = 1198), trung bình (4,98 − 10,65 ng/mL, n = 2346) và cao (≥ 10,65 ng/mL, n = 1175). Kết quả đánh giá bao gồm tỉ lệ con sinh sống, tỉ lệ sẩy thai, tỉ lệ mang thai lâm sàng và tỉ lệ sinh con sống tích lũy.
Kết quả
Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS) tăng dần từ AMH thấp đến cao, lần lượt là 0,9%; 0,8% và 2% (P=0,004). Số lượng noãn thu được và phôi chất lượng tăng lên đáng kể từ nhóm AMH thấp đến AMH cao, nhưng không có sự khác biệt về tỉ lệ thụ tinh, số lượng và loại phôi được chuyển trong các chu kì chuyển phôi tươi. Tỉ lệ chuyển phôi tươi giảm dần từ nhóm AMH thấp đến AMH cao, lần lượt là 52,4%; 39,0% và 27,1% (P<0,001).
Về kết quả lâm sàng, tỉ lệ trẻ sinh sống giảm dần ở nhóm AMH thấp đến AMH cao, lần lượt là 39,8%; 35,9% và 30,4% (P=0,017). Tỉ lệ sẩy thai tăng đáng kể từ nhóm AMH thấp đến AMH cao, lần lượt là 11,3%; 17,1% và 21,8% (P=0,018). Không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ mang thai lâm sàng ( P = 0,204) hoặc tỷ lệ sinh con sống tích lũy ( P = 0,423) giữa các nhóm.
Khi phân tích hồi quy logistic đa biến thì nhận thấy rằng tỉ lệ trẻ sinh sống giảm ở nhóm AMH cao so với nhóm AMH thấp (OR: 0,629; 95% CI: 0,460–0,860). Ngoài ra, tỉ lệ sẩy thai ở nhóm AMH trung bình (OR: 1,592, 95% CI: 1,017–2,490) và cao (OR: 2,045, 95% CI: 1,152–3,633) tăng đáng kể so với nhóm AMH thấp. Không có mối liên hệ giữa nồng độ AMH và tỉ lệ sinh con sống tích lũy.
Biện luận
Kết quả cho thấy AMH cao làm giảm tỉ lệ trẻ sinh sống và tăng tỉ lệ sẩy thai sau khi chuyển phôi tươi. Điều này có thể do AMH cao làm ảnh hưởng đến độ dày nội mạc tử cung, làm giảm chức năng nội mạc và ảnh hưởng khả năng làm tổ của phôi. Mặc dù tỉ lệ sinh con sống thấp hơn ở nhóm AMH cao so với AMH cao nhưng tỉ lệ sinh con sống tích lũy lại tương đương giữa các nhóm. Điều này chỉ ra rằng phụ nữ mắc PCOS có nồng độ AMH cao có thể cân nhắc thực hiện chuyển phôi trữ (FET), do số lượng phôi chất lượng tốt tăng lên ở nhóm AMH cao.
Nghiên cứu có một số hạn chế như đây là nghiên cứu hồi cứu và thực hiện tại một trung tâm duy nhất, nên kết quả có thể không khách quan. Do đó, cần có các nghiên cứu tiến cứu quy mô lớn để xác nhận những phát hiện này và hiểu rõ hơn về vai trò của AMH trong quá trình sinh bệnh PCOS.
Kết luận
Nồng độ AMH cao là yếu tố giúp tiên lượng tỉ lệ sinh con sống sau khi chuyển phôi tươi ở những người phụ nữ mắc PCOS ở độ tuổi từ 20 đến 40 khi đang thực hiện IVF/ICSI, và có liên quan đến việc tăng tỉ lệ sẩy thai ở những bệnh nhân này.
Nguồn: Zhao, F., Wen, D., Zeng, L., Wang, R., Wang, D., Xu, H., ... & Chi, H. (2025). High anti-Müllerian hormone level as a predictor of poor pregnancy outcomes in women with polycystic ovary syndrome undergoing in vitro fertilization/intracytoplasmic sperm injection: a retrospective cohort study. Reproductive Biology and Endocrinology: RB&E, 23, 15.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK