Tin tức
on Saturday 15-02-2025 12:40pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN Lê Ngọc Quế Anh – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Lựa chọn phôi có tiềm năng làm tổ cao nhất là yếu tố quan trọng để đạt được tỷ lệ sinh sống cao hơn, giảm thiểu tỉ lệ chuyển phôi thất bại và nhiều tỷ lệ sinh trong chu kỳ IVF. Hai yếu tố quan trọng nhất để phôi làm tổ thành công là sự phát triển tối ưu của chất lượng nội mạc tử cung và phôi.
Phân chia bất thường (irregular cleavage - IRC) được định nghĩa là một tế bào mẹ phân chia trực tiếp thành nhiều hơn hai tế bào con bất kể kích thước tế bào. Nhiều nghiên cứu trong thập kỹ qua đã tìm kiếm các dấu hiệu động học để đánh giá và lựa chọn phôi nhưng lợi ích lâm sàng vẫn chưa được xác định.
Mục tiêu nghiên cứu: nhằm cung cấp thông tin về tỷ lệ phôi phân chia bất thường, mối tương quan với các đặc điểm bệnh nhân và điều trị, so sánh kết quả điều trị giữa phôi có mô hình phân chia bình thường và bất thường.
Phương pháp
Nghiên cứu quan sát, đoàn hệ tiến cứu, được thực hiện từ 2016-2021 tại một trung tâm IVF gồm 1001 phụ nữ với 1976 lần điều trị với 23605 noãn được thu nhận và 9632 phôi phát triển. Phân chia ngược không được đánh giá trong nghiên cứu này. IRC sớm được định nghĩa là sự phân chia xảy ra trong 24 giờ đầu tiên sau khi xuất hiện 2PN và IRC muộn là khi xảy ra đến lần phân chia thứ ba. Việc theo dõi IRC chỉ được thực hiện đến lần phân chia thứ ba do khó khăn kỹ thuật khi theo dõi các phôi lớn hơn với nhiều tế bào. Các sự kiện IRC được phân biệt thành sự kiện đơn lẻ và nhiều sự kiện. Động học hình thái phôi được phân tích và đánh giá về mối quan hệ giữa IRC và đặc điểm của phụ nữ, đặc điểm điều trị, kết quả mang thai.
Kết quả
Không tìm thấy sự tương quan giữa tuổi, chỉ số khối cơ thể (BMI), số lần sinh con, và mức FSH cơ bản với số lượng các sự kiện phân chia không đều (IRC) hoặc thời gian xảy ra của chúng. Tuy nhiên, phôi có hiện tượng IRC được phát hiện có mối liên hệ với vô sinh do yếu tố nam giới (35,7% so với 31,2%, p = 0,01). Tỷ lệ phôi có hiện tượng phân chia bất thường là 17,5% (1689/9632). Trong số đó có 35% IRC sớm và 65% IRC muộn. Ngoài ra 7943 phôi (82,5%) không có IRC, 1447 phôi (15%) có một lần IRC và 242 phôi (2,5%) có hai hoặc nhiều lần IRC. Số lượng các hiện tượng phân chia không đều (IRC) và thời gian xảy ra của chúng không bị ảnh hưởng bởi phác đồ kích thích, thuốc kích rụng trứng, hoặc số lượng noãn được thu thập. Tỷ lệ ICSI cao hơn ở phôi có IRC so với phôi không có IRC (89% so với 87%, p = 0,01). Việc tăng số lượng các hiện tượng phân chia không đều (IRC) trong quá trình phát triển của phôi và thời điểm xuất hiện sớm của sự kiện IRC đầu tiên đều được tìm thấy có mối tương quan với tỷ lệ cao hơn của đa nhân và kích thước phôi bào không đồng đều. Sự xuất hiện sớm của sự kiện IRC cũng liên quan đến tỷ lệ phân mảnh cao hơn (14, 9% đối với không có IRC, 18% đối với IRC sớm và 12% đối với IRC muộn; p < 0,01). Tỷ lệ phôi hữu dụng giảm đáng kể ở các phôi có hiện tượng phân chia bất thường (53,9%). Tỷ lệ này còn giảm hơn nữa ở các phôi có hai hoặc nhiều hiện tượng IRC, lần lượt là 14% và 9,5% (p < 0,01). Ngoài ra, tỷ lệ phôi hữu dụng cũng thấp hơn ở các phôi có IRC sớm so với IRC muộn (9% so với 15,9%; p < 0,01).
Các chu kỳ tươi sử dụng phôi IRC có tỷ lệ mang thai lâm sàng thấp hơn (p = 0,01) và phôi có IRC sớm có tỷ lệ sinh sống thấp hơn (p = 0,04) so với phôi không có IRC. Các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh của phôi nang, có hoặc không có IRC, có kết quả tương đương.
Bàn luận
Nghiên cứu đã chứng minh rằng yếu tố nam giới và kỹ thuật ICSI có mối tương quan với IRC đồng thời cho thấy rằng một sự kiện IRC sớm duy nhất hoặc nhiều lần xảy ra IRC có tác động bất lợi lên sự phát triển phôi và kết quả IVF xét về tỷ lệ phần trăm phôi đạt đến giai đoạn túi phôi. Một giả thuyết về sự hình thành IRC là sự xuất hiện của trục phân bào đa cực thông qua việc đưa vào các trung tử không hoàn chỉnh, khiếm khuyết hoặc thừa số lượng từ tinh trùng bất thường. Quy trình ICSI có thể gây tổn thương đến trục phân bào của noãn, dẫn đến sự xuất hiện của IRC. Tỷ lệ mang thai lâm sàng được tìm thấy giảm đáng kể trong các trường hợp có một IRC muộn duy nhất và thậm chí còn thấp hơn trong các trường hợp có một IRC sớm hoặc nhiều lần IRC. Nghiên cứu cũng phát hiện rằng các phôi nang đông lạnh với IRC có thể dẫn đến mang thai, mặc dù tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn so với chuyển phôi đông lạnh với phôi có phân chia bình thường. Các cơ chế phân tử đằng sau hiện tượng phân chia bất thường (IRC) vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn, nhưng có sự đồng thuận rằng các lỗi trong quá trình nguyên phân đóng vai trò quan trọng trong sự phân chia bất thường này. Khi IRC xảy ra muộn, ít nhất có một phôi bào phân chia bình thường, góp phần vào sự cân bằng nhiễm sắc thể của phôi, từ đó tăng cường khả năng sống sót và cuối cùng dẫn đến tỷ lệ làm tổ và sinh sống cao hơn. Việc tăng số lượng sự kiện phân chia bất thường trong quá trình phát triển phôi cho thấy có nhiều lỗi nguyên phân hơn và số phôi bào phân chia bình thường ít hơn. Nghiên cứu nhận thấy rằng phôi có nhiều sự kiện IRC không chỉ có tỷ lệ phần trăm phôi đạt đến giai đoạn túi phôi và tỷ lệ mang thai lâm sàng thấp hơn, mà còn có số lượng phôi sử dụng được ít hơn và tỷ lệ sinh non cao hơn. Mặc dù nhiều sự kiện IRC có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển phôi và kết quả lâm sàng, nhưng phôi IRC đạt đến giai đoạn phôi nang chất lượng tốt vẫn có tiềm năng sinh sản tương đương với phôi bình thường.
Ưu điểm nghiên cứu bao gồm kích thước cỡ mẫu tương đối lớn với phôi được nuôi trong tủ cấy EmbryoScope tại một trung tâm IVF duy nhất với tất cả chuyên viên phôi học có trình độ chuyên môn cao và tuân thủ hướng dẫn về đánh giá phôi. Đây là một nghiên cứu quan sát theo thời gian do đó dữ liệu thu được rất chính xác. Chỉ có phân tích dữ liệu được thực hiện hồi cứu.
Tuy nhiên, nghiên cứu có một số điểm hạn chế. Thứ nhất mặc dù số lượng phôi được tạo ra và phân tích khá lớn nhưng số lượng phôi IRC được chuyển không nhiều do chính sách của phòng ban ưu tiên chuyển phôi phân chia bình thường. Hạn chế khác là các phôi được chuyển chưa được phân tích di truyền. Bên cạnh đó, trong nhiều chu kỳ có phôi IRC, một phôi IRC với một phôi phân chia bình thường cùng được chuyển làm cho việc diễn giải tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống khó hơn.
Kết luận
Phôi phân chia bất thường (IRC) nên được ưu tiên thấp hơn khi lựa chọn để chuyển đặc biệt là ở giai đoạn phôi phân chia. Do tỷ lệ sinh sống sau chuyển phôi IRC thấp hơn đáng kể so với phôi phân chia bình thường. Phôi nang phân chia bất thường nên được xem xét là lựa chọn thứ hai cho chuyển phôi nếu chúng đạt tiêu chuẩn về hình thái.
Nguồn: Shavit M, Gonen D, Atzmon Y, Aslih N, Bilgory A, Shibli Abu-Raya Y, Sharqawi M, Estrada Garcia D, Michaeli M, Polotov D, Shalom-Paz E. Cleavage Patterns of 9600 Embryos: The Importance of Irregular Cleavage. J Clin Med. 2023 Aug 30;12(17):5656. doi: 10.3390/jcm12175656. PMID: 37685723; PMCID: PMC10488943.
Giới thiệu
Lựa chọn phôi có tiềm năng làm tổ cao nhất là yếu tố quan trọng để đạt được tỷ lệ sinh sống cao hơn, giảm thiểu tỉ lệ chuyển phôi thất bại và nhiều tỷ lệ sinh trong chu kỳ IVF. Hai yếu tố quan trọng nhất để phôi làm tổ thành công là sự phát triển tối ưu của chất lượng nội mạc tử cung và phôi.
Phân chia bất thường (irregular cleavage - IRC) được định nghĩa là một tế bào mẹ phân chia trực tiếp thành nhiều hơn hai tế bào con bất kể kích thước tế bào. Nhiều nghiên cứu trong thập kỹ qua đã tìm kiếm các dấu hiệu động học để đánh giá và lựa chọn phôi nhưng lợi ích lâm sàng vẫn chưa được xác định.
Mục tiêu nghiên cứu: nhằm cung cấp thông tin về tỷ lệ phôi phân chia bất thường, mối tương quan với các đặc điểm bệnh nhân và điều trị, so sánh kết quả điều trị giữa phôi có mô hình phân chia bình thường và bất thường.
Phương pháp
Nghiên cứu quan sát, đoàn hệ tiến cứu, được thực hiện từ 2016-2021 tại một trung tâm IVF gồm 1001 phụ nữ với 1976 lần điều trị với 23605 noãn được thu nhận và 9632 phôi phát triển. Phân chia ngược không được đánh giá trong nghiên cứu này. IRC sớm được định nghĩa là sự phân chia xảy ra trong 24 giờ đầu tiên sau khi xuất hiện 2PN và IRC muộn là khi xảy ra đến lần phân chia thứ ba. Việc theo dõi IRC chỉ được thực hiện đến lần phân chia thứ ba do khó khăn kỹ thuật khi theo dõi các phôi lớn hơn với nhiều tế bào. Các sự kiện IRC được phân biệt thành sự kiện đơn lẻ và nhiều sự kiện. Động học hình thái phôi được phân tích và đánh giá về mối quan hệ giữa IRC và đặc điểm của phụ nữ, đặc điểm điều trị, kết quả mang thai.
Kết quả
Không tìm thấy sự tương quan giữa tuổi, chỉ số khối cơ thể (BMI), số lần sinh con, và mức FSH cơ bản với số lượng các sự kiện phân chia không đều (IRC) hoặc thời gian xảy ra của chúng. Tuy nhiên, phôi có hiện tượng IRC được phát hiện có mối liên hệ với vô sinh do yếu tố nam giới (35,7% so với 31,2%, p = 0,01). Tỷ lệ phôi có hiện tượng phân chia bất thường là 17,5% (1689/9632). Trong số đó có 35% IRC sớm và 65% IRC muộn. Ngoài ra 7943 phôi (82,5%) không có IRC, 1447 phôi (15%) có một lần IRC và 242 phôi (2,5%) có hai hoặc nhiều lần IRC. Số lượng các hiện tượng phân chia không đều (IRC) và thời gian xảy ra của chúng không bị ảnh hưởng bởi phác đồ kích thích, thuốc kích rụng trứng, hoặc số lượng noãn được thu thập. Tỷ lệ ICSI cao hơn ở phôi có IRC so với phôi không có IRC (89% so với 87%, p = 0,01). Việc tăng số lượng các hiện tượng phân chia không đều (IRC) trong quá trình phát triển của phôi và thời điểm xuất hiện sớm của sự kiện IRC đầu tiên đều được tìm thấy có mối tương quan với tỷ lệ cao hơn của đa nhân và kích thước phôi bào không đồng đều. Sự xuất hiện sớm của sự kiện IRC cũng liên quan đến tỷ lệ phân mảnh cao hơn (14, 9% đối với không có IRC, 18% đối với IRC sớm và 12% đối với IRC muộn; p < 0,01). Tỷ lệ phôi hữu dụng giảm đáng kể ở các phôi có hiện tượng phân chia bất thường (53,9%). Tỷ lệ này còn giảm hơn nữa ở các phôi có hai hoặc nhiều hiện tượng IRC, lần lượt là 14% và 9,5% (p < 0,01). Ngoài ra, tỷ lệ phôi hữu dụng cũng thấp hơn ở các phôi có IRC sớm so với IRC muộn (9% so với 15,9%; p < 0,01).
Các chu kỳ tươi sử dụng phôi IRC có tỷ lệ mang thai lâm sàng thấp hơn (p = 0,01) và phôi có IRC sớm có tỷ lệ sinh sống thấp hơn (p = 0,04) so với phôi không có IRC. Các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh của phôi nang, có hoặc không có IRC, có kết quả tương đương.
Bàn luận
Nghiên cứu đã chứng minh rằng yếu tố nam giới và kỹ thuật ICSI có mối tương quan với IRC đồng thời cho thấy rằng một sự kiện IRC sớm duy nhất hoặc nhiều lần xảy ra IRC có tác động bất lợi lên sự phát triển phôi và kết quả IVF xét về tỷ lệ phần trăm phôi đạt đến giai đoạn túi phôi. Một giả thuyết về sự hình thành IRC là sự xuất hiện của trục phân bào đa cực thông qua việc đưa vào các trung tử không hoàn chỉnh, khiếm khuyết hoặc thừa số lượng từ tinh trùng bất thường. Quy trình ICSI có thể gây tổn thương đến trục phân bào của noãn, dẫn đến sự xuất hiện của IRC. Tỷ lệ mang thai lâm sàng được tìm thấy giảm đáng kể trong các trường hợp có một IRC muộn duy nhất và thậm chí còn thấp hơn trong các trường hợp có một IRC sớm hoặc nhiều lần IRC. Nghiên cứu cũng phát hiện rằng các phôi nang đông lạnh với IRC có thể dẫn đến mang thai, mặc dù tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn so với chuyển phôi đông lạnh với phôi có phân chia bình thường. Các cơ chế phân tử đằng sau hiện tượng phân chia bất thường (IRC) vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn, nhưng có sự đồng thuận rằng các lỗi trong quá trình nguyên phân đóng vai trò quan trọng trong sự phân chia bất thường này. Khi IRC xảy ra muộn, ít nhất có một phôi bào phân chia bình thường, góp phần vào sự cân bằng nhiễm sắc thể của phôi, từ đó tăng cường khả năng sống sót và cuối cùng dẫn đến tỷ lệ làm tổ và sinh sống cao hơn. Việc tăng số lượng sự kiện phân chia bất thường trong quá trình phát triển phôi cho thấy có nhiều lỗi nguyên phân hơn và số phôi bào phân chia bình thường ít hơn. Nghiên cứu nhận thấy rằng phôi có nhiều sự kiện IRC không chỉ có tỷ lệ phần trăm phôi đạt đến giai đoạn túi phôi và tỷ lệ mang thai lâm sàng thấp hơn, mà còn có số lượng phôi sử dụng được ít hơn và tỷ lệ sinh non cao hơn. Mặc dù nhiều sự kiện IRC có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển phôi và kết quả lâm sàng, nhưng phôi IRC đạt đến giai đoạn phôi nang chất lượng tốt vẫn có tiềm năng sinh sản tương đương với phôi bình thường.
Ưu điểm nghiên cứu bao gồm kích thước cỡ mẫu tương đối lớn với phôi được nuôi trong tủ cấy EmbryoScope tại một trung tâm IVF duy nhất với tất cả chuyên viên phôi học có trình độ chuyên môn cao và tuân thủ hướng dẫn về đánh giá phôi. Đây là một nghiên cứu quan sát theo thời gian do đó dữ liệu thu được rất chính xác. Chỉ có phân tích dữ liệu được thực hiện hồi cứu.
Tuy nhiên, nghiên cứu có một số điểm hạn chế. Thứ nhất mặc dù số lượng phôi được tạo ra và phân tích khá lớn nhưng số lượng phôi IRC được chuyển không nhiều do chính sách của phòng ban ưu tiên chuyển phôi phân chia bình thường. Hạn chế khác là các phôi được chuyển chưa được phân tích di truyền. Bên cạnh đó, trong nhiều chu kỳ có phôi IRC, một phôi IRC với một phôi phân chia bình thường cùng được chuyển làm cho việc diễn giải tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống khó hơn.
Kết luận
Phôi phân chia bất thường (IRC) nên được ưu tiên thấp hơn khi lựa chọn để chuyển đặc biệt là ở giai đoạn phôi phân chia. Do tỷ lệ sinh sống sau chuyển phôi IRC thấp hơn đáng kể so với phôi phân chia bình thường. Phôi nang phân chia bất thường nên được xem xét là lựa chọn thứ hai cho chuyển phôi nếu chúng đạt tiêu chuẩn về hình thái.
Nguồn: Shavit M, Gonen D, Atzmon Y, Aslih N, Bilgory A, Shibli Abu-Raya Y, Sharqawi M, Estrada Garcia D, Michaeli M, Polotov D, Shalom-Paz E. Cleavage Patterns of 9600 Embryos: The Importance of Irregular Cleavage. J Clin Med. 2023 Aug 30;12(17):5656. doi: 10.3390/jcm12175656. PMID: 37685723; PMCID: PMC10488943.
Các tin khác cùng chuyên mục:









TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...
Năm 2020
Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
FACEBOOK