Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 12-02-2025 1:27am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thu Hương – IVFMD Phú Nhuận

Giới thiệu: Hiện nay, lựa chọn phôi phát triển tốt và tiềm năng làm tổ cao giúp tăng hiệu quả điều trị vẫn là một thách thức. Đánh giá chất lượng phôi dựa trên trạng thái nhiễm sắc thể và khả năng sống của phôi là yếu tố quan trọng. Thể lệch bội xuất hiện khoảng 50% số phôi trong giai đoạn tiền làm tổ và là nguyên nhân thường gặp dẫn đến thất bại làm tổ. Chuyển phôi trữ nguyên bội sau sàng lọc bất thường số lượng nhiễm sắc thể (Preimplantation genetic testing for aneuploidy – PGT-A) đã cải thiện kết quả. Tuy nhiên, người ta báo cáo rằng một phần ba số phôi nguyên bội chất lượng tốt vẫn không thể làm tổ. Vì vậy, cần bổ sung đặc điểm khác có thể dùng để dự đoán khả năng phát triển của phôi. Một số nghiên cứu đã chứng minh chất lượng hình thái và ngày sinh thiết của phôi nang có liên quan đến sự co sụp tự phát và số lần co sụp. Ngoài ra, quá trình tái giãn nở lại của phôi nang cần sử dụng năng lượng đáng kể và có thể gây ra tác động bất lợi đến tiềm năng phát triển của phôi. Vì vậy nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định liệu số lần và tổng thời gian co sụp khoang phôi có thể được sử dụng để tiên lượng tình trạng nguyên bội và kết quả trẻ sinh sống hay không.
 
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện trên 600 chu kỳ PGT-A, bao gồm 2203 phôi nang được sinh thiết. Trước khi sinh thiết, các đặc điểm của sự co sụp tự phát trong quá trình phát triển của phôi nang được quan sát thông qua hệ thống camera quan sát liên tục (Time-lapse monitoring – TLM). Tổng cộng có 568 chu kỳ chuyển phôi nang đông lạnh đã được thực hiện. Mối tương quan giữa các đặc điểm co sụp và kết quả PGT-A cũng như tỷ lệ trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi nguyên bội đã được đánh giá.
Kết quả:
Tương quan giữa đặc điểm co sụp tự phát của phôi nang và kết quả của PGT-A:
  • Tỷ lệ phôi nguyên bội ở nhóm phôi nang co sụp thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm phôi nang không bị co sụp (39,52% so với 46,42%; p=0,002)
  • Tỷ lệ phôi lệch bội ở nhóm phôi nang co sụp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm phôi nang không bị co sụp (48,87% so với 43,40%; p=0,015)
  • Tỷ lệ phôi nguyên bội trong nhóm phôi nang bị co sụp có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa phôi nang có 1, 2 và ≥ 3 lần co sụp (42,94%; 35,43% và 26,92%; p=0,001)
  • Tổng thời gian co nở ở phôi nguyên bội thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với phôi lệch bội (2,05±1,38 giờ so với 2,56±1,85 giờ; p<0,001)
Tương quan giữa đặc điểm co sụp và chất lượng phôi nang:
  • Tỷ lệ phôi co sụp có tương quan âm với chất lượng phôi (22,94%; 24,17%; 35,17% và 55,95%; lần lượt giữa nhóm phôi chất lượng cao, phôi tốt, phôi khá và phôi kém; p<0,001).
  • Tổng thời gian co nở ở nhóm phôi kém lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm phôi chất lượng cao, phôi tốt và phôi khá (2,95±1,95 giờ so với 2,04±1,35 giờ; 1,91±1,38 giờ và 2,24±1,56 giờ; p<0,001)
Tương quan giữa đặc điểm co sụp tự phát của phôi nang và ngày sinh thiết:
  • Tỷ lệ phôi co sụp, số lần co sụp, tổng thời gian co nở ở nhóm phôi nang sinh thiết vào giai đoạn ngày 5 thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với giai đoạn ngày 6 (p<0,001)
Tương quan giữa đặc điểm co sụp tự phát của phôi nang và kết quả thai kỳ:
  • Tổng thời gian co nở ở nhóm trẻ sinh sống thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có trẻ sinh sống (0,78 ± 1,21 giờ so với 1,06 ± 1,43 giờ; p= 0,015)
  • Phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy tổng thời gian co nở tăng ghi nhận tỷ lệ trẻ sinh sống giảm với OR=0,79 (KTC 95%: 0,64–0,98; p=0,033)
Kết luận: Tổng thời gian co sụp khoang phôi của phôi nang là đặc điểm có khả năng tiên lượng tỷ lệ phôi nguyên bội và tỷ lệ trẻ sinh sống. Sự co sụp tự phát nên được coi là một biến số quan trọng khi phát triển các thuật toán cho giai đoạn phôi nang để dự đoán tỷ lệ thai.
 
Nguồn: Zhu, J., Zou, J., Wu, L., Xiong, S., Gao, Y., Liu, J., ... & Han, W. (2024). Total duration of spontaneous blastocyst collapse during the expansion stage is an independent predictor of euploidy and live birth rates. Reproductive BioMedicine Online49(1), 103863.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...

Năm 2020

Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK