Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 01-02-2025 1:16am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
 
Tổng quan
Việc lựa chọn đơn phôi nang có tiềm năng nhất để chuyển phôi là một trong những yếu tố quan trọng, giúp gia tăng tỉ lệ thai lâm sàng (Clinical pregnancy rate – CPR) và tỉ lệ trẻ sinh sống (Live birth rate – LBR), đồng thời giảm nguy cơ quá kích buồng trứng (Ovarian hyper stimulation syndrome – OHSS), mang đa thai và thai ngoài tử cung. Hiện nay, đánh giá phôi theo hình thái được sử dụng phổ biến do tính đơn giản, hiệu quả và không xâm lấn. Đối với phôi ngày 5, hình thái phôi được đánh giá thông qua ba thông số chính: độ nở rộng khoang phôi, khối tế bào bên trong (Inner cell mass – ICM), và lớp tế bào lá nuôi (Trophectoderm cells – TE).
 
Mặc dù nuôi cấy trong cùng một điều kiện, phôi có thể phát triển với tốc độ không đồng nhất. Một số phôi không đạt đến giai đoạn phôi nang nở rộng hoàn toàn vào ngày thứ 5 (D5) mà chỉ phát triển đến giai đoạn phôi nang sớm (Early blastocyst – EB). Một số ý kiến cho rằng, nức độ nở rộng của phôi nang là yếu tố độc lập để dự đoán tỉ lệ trẻ sinh sống. Tuy nhiên, dữ liệu về kết quả thai kỳ lâm sàng từ những ca chuyển phôi nang sớm D5 vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu này tiến hành nhằm mục đích giải quyết hạn chế nói trên bằng cách so sánh kết quả lâm sàng giữa hai nhóm chuyển phôi nang sớm và phôi nang nở rộng hoàn toàn trong chu kỳ tươi.
 
Phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm 289 bệnh nhân đã trải qua chu kỳ IVF/ICSI tại một Trung tâm Y học Sinh sản ở Chiết Giang, Trung Quốc từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 12 năm 2021. Tiêu chí lựa chọn bao gồm các bệnh nhân ≤42 tuổi và chuyển đơn phôi nang trong vòng 5 ngày của chu kỳ tươi. Những bệnh nhân bất thường về tử cung, sàng lọc chẩn đoán di truyền tiền làm tổ và thất bại làm tổ nhiều lần (RIF) bị loại khỏi nghiên cứu này.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS (phiên bản 25.0).
 
Kết quả
Tổng cộng 289 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, trong số đó, 139 bệnh nhân (48,1%) bị vô sinh nguyên phát và 150 bệnh nhân (51,9%) bị vô sinh thứ phát, với thời gian vô sinh từ 1 đến 15 năm (trung bình 3,3 năm). Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với nhóm bệnh nhân có độ tuổi trung bình 29,9. Dựa vào tốc độ phát triển của phôi, nghiên cứu chia thành hai nhóm: nhóm phôi nang sớm (n=48) và nhóm phôi nở rộng hoàn toàn (n=241).
 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về các đặc điểm như: tuổi mẹ, thời gian vô sinh, loại vô sinh, mức AMH, FSH nền, số nang thứ cấp (AFC), BMI, phác đồ kích thích buồng trứng, tổng liều gonadotropin, nồng độ estradiol vào ngày tiêm HCG, độ dày niêm mạc tử cung, số noãn thu được và phương pháp thụ tinh (P>0,05). Có sự khác biệt về số lượng phôi có thể chuyển và phôi trữ đông ở nhóm EB thấp hơn so với nhóm phôi nang nở rộng hoàn toàn.
 
Các chỉ số kết quả thai kỳ cho thấy tỉ lệ thai sinh hóa ở nhóm EB là 45,8% so với 62,7% ở nhóm phôi nang nở rộng hoàn toàn (P=0,03). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ sảy thai sớm, tỉ lệ thai ngoài tử cung, tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ trẻ sinh sống giữa hai nhóm (P>0,05). Để loại trừ các yếu tố gây nhiễu, phân tích hồi quy đa biến cho thấy chuyển phôi EB là một yếu tố nguy cơ đối với thai sinh hóa (OR=0,39, 95%; KTC: 0,195-0,779; P=0,008), tuy nhiên không phải là yếu tố nguy cơ cho thai lâm sàng, sảy thai sớm, thai diễn tiến, hoặc trẻ sinh sống (P>0,05).
 
Từ dữ liệu sơ sinh cho thấy, có 15 ca sinh sống ở nhóm phôi EB và 106 ca ở nhóm phôi nang nở rộng hoàn toàn. Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tuổi thai, phương pháp sinh, cân nặng sơ sinh, điểm Apgar, tỉ lệ giới tính, và tỉ lệ dị tật bẩm sinh (P>0,05). Nhóm phôi nang sớm không có trường hợp dị tật nào, trong khi nhóm phôi nang nở rộng hoàn toàn có một trường hợp mắc bệnh van tim bẩm sinh (P>0,05).
 
Bàn luận
Mặc dù nuôi cấy trong cùng điều kiện, tỉ lệ thành công của phôi nang vẫn khác nhau. Các nghiên cứu trước đây cho thấy có khoảng 30% phôi phát triển chậm. Hiện tại, kết quả lâm sàng khi chuyển phôi nang sớm ngày 5 (D5) với tốc độ phát triển chậm vẫn còn nhiều tranh cãi.
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm phôi nang sớm thấp hơn một chút so với nhóm phôi nang nở rộng hoàn toàn nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Phân tích hồi quy logistic đa biến cũng cho kết quả tương tự, cho thấy rằng chuyển phôi nang sớm trong chu kỳ tươi không phải là yếu tố nguy cơ cho việc đạt được thai lâm sàng và trẻ sinh sống. Việc chuyển phôi nang sớm ngày 5 trong chu kỳ tươi có thể giúp rút ngắn thời gian điều trị và tránh các tác động tiêu cực từ quá trình đông lạnh. Tuy nhiên, cần thêm các nghiên cứu với mẫu lớn hơn và theo dõi dài hạn để xác định chính xác hơn các yếu tố ảnh hưởng đến thành công khi chuyển phôi nang sớm.
 
Nguồn: Pan X, Zhou Y, Shen L (2024) Comparison of early and fully expanded blastocysts on pregnancy and birth outcomes in patients with fresh IVF/ICSI cycles: A retrospective cohort study. PLoS ONE 19(8): e0308130.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...

Năm 2020

Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK