Tin tức
on Friday 24-01-2025 2:19pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
Tổng quan
Với sự phát triển của công nghệ hỗ trợ sinh sản, tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) đã tăng lên đáng kể, nhưng đồng thời cũng kéo theo tỉ lệ đa thai cao. Đa thai làm tăng nguy cơ biến chứng sản khoa và các kết cục sơ sinh bất lợi. Hiện nay, chiến lược chuyển đơn phôi (SET) được áp dụng phổ biến nhằm giảm thiểu tỉ lệ mang đa thai và những rủi ro liên quan. Tuy nhiên, lợi ích tiềm năng này cần được đánh giá thận trọng với nguy cơ có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống tổng thể. Dữ liệu từ một tập hợp lớn các chu kỳ ART cho thấy việc chuyển đơn phôi ở bất kỳ lần chuyển phôi nào có thể làm giảm 1/3 tỉ lệ sinh sống so với chuyển hai phôi (DET).
Trường hợp chỉ có một phôi chất lượng tốt và một phôi chất lượng kém sẽ phải đối mặt với tình huống lâm sàng khó khăn: liệu có nên chuyển thêm phôi chất lượng kém để tối đa hóa khả năng thành công hay không, đặc biệt ở những phụ nữ đã từng thất bại làm tổ. Đến hiện tại, nhiều nghiên cứu tiến hành để đánh giá ảnh hưởng của việc chuyển thêm phôi chất lượng kém đến kết quả mang thai, tuy nhiên kết quả vẫn gây tranh cãi. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá một cách toàn diện tác động của việc chuyển hai phôi nang, bao gồm một phôi chất lượng tốt và một phôi chất lượng kém, đến kết quả mang thai trong các chu kỳ chuyển phôi nang đông lạnh.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bao gồm 11.738 bệnh nhân trải qua chu kỳ chuyển phôi nang đông lạnh tại một Trung tâm Hỗ trợ sinh sản ở Trung Quốc từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2022. Nghiên cứu chia thành hai nhóm: nhóm SBT (chuyển một phôi nang chất lượng tốt, n=9.338) và nhóm DBT (chuyển một phôi nang chất lượng tốt cùng với một phôi chất lượng kém, n=2.400).
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS (phiên bản 22.0).
Kết quả
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhóm DBT có tỉ lệ thai lâm sàng (76,7% so với 67,3%), tỉ lệ trẻ sinh sống (65,6% so với 56,3%), tỉ lệ đa thai (41,4% so với 1,8%), tỉ lệ sinh non (29,3% so với 10,3%) và tỉ lệ sinh mổ (83,5% so với 74,8%) đều cao hơn so với nhóm SBT. Ngược lại, tỉ lệ làm tổ (59,1% so với 70,2%), tỉ lệ sẩy thai (11% so với 14,2%), tuổi thai (37,78±2,36 so với 38,78±1,83) và cân nặng khi sinh (3019,53±658,99 so với 3317,61±535,80) thấp hơn so với nhóm SBT. Tất cả các tỉ lệ đều cho kết quả có ý nghĩa thống kê (P< 0,001).
Phân tích bổ sung cho thấy, DBT mang lại cơ hội sinh sống cao hơn ở tất cả các phân nhóm, bao gồm thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung, nguyên nhân vô sinh, phương pháp thụ tinh, các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung, ... Phân tích hồi quy đa biến được thực hiện để đánh giá thêm ảnh hưởng của DBT đối với LBR. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa DBT và SBT đối với LBR trước khi điều chỉnh các yếu tố nhiễu (OR:1,48; 95% CI 1,35-1.63; P<0,001) và sau khi điều chỉnh tuổi mẹ và chỉ số BMI (aOR: 1,49; 95% CI: 1,35-1,63; P<0.001). Sau khi điều chỉnh thêm các yếu tố khác như thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung, nguyên nhân vô sinh, phương pháp thụ tinh, số chu kỳ điều trị, số lần mang thai và số lần sinh sống trước đó, DBT vẫn có mối liên hệ đáng kể với LBR (aOR: 1,55; 95% CI: 1,41-1,71; P<0.001).
Kết luận
Việc chuyển thêm phôi chất lượng kém cùng với phôi chất lượng tốt không gây tác động bất lợi lên kết quả mang thai. Nhóm DBT ghi nhận mức tăng nhẹ trong LBR nhưng gia tăng đáng kể nguy cơ đa thai. Ngoài ra, tỉ lệ làm tổ giảm đáng kể ở nhóm DBT. Kết quả cho thấy rằng việc chuyển thêm phôi chất lượng kém có thể làm giảm tiềm năng làm tổ của phôi chất lượng tốt khi cả hai được chuyển cùng lúc. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu phôi chất lượng cao có thể vượt qua các tín hiệu tiêu cực từ phôi chất lượng kém hay không. Nghiên cứu này cho thấy việc chuyển thêm phôi chất lượng kém làm giảm khả năng làm tổ, nhưng cơ chế sinh học chính xác vẫn cần được nghiên cứu thêm.
Nguồn: He T, Xue X, Shi J. Impact of inclusion of a poor-quality embryo with a good-quality embryo on pregnancy outcomes in vitrified-warmed blastocyst transfers. Reprod Biomed Online. 2024;49(3):104104. doi:10.1016/j.rbmo.2024.104104
Tổng quan
Với sự phát triển của công nghệ hỗ trợ sinh sản, tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) đã tăng lên đáng kể, nhưng đồng thời cũng kéo theo tỉ lệ đa thai cao. Đa thai làm tăng nguy cơ biến chứng sản khoa và các kết cục sơ sinh bất lợi. Hiện nay, chiến lược chuyển đơn phôi (SET) được áp dụng phổ biến nhằm giảm thiểu tỉ lệ mang đa thai và những rủi ro liên quan. Tuy nhiên, lợi ích tiềm năng này cần được đánh giá thận trọng với nguy cơ có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống tổng thể. Dữ liệu từ một tập hợp lớn các chu kỳ ART cho thấy việc chuyển đơn phôi ở bất kỳ lần chuyển phôi nào có thể làm giảm 1/3 tỉ lệ sinh sống so với chuyển hai phôi (DET).
Trường hợp chỉ có một phôi chất lượng tốt và một phôi chất lượng kém sẽ phải đối mặt với tình huống lâm sàng khó khăn: liệu có nên chuyển thêm phôi chất lượng kém để tối đa hóa khả năng thành công hay không, đặc biệt ở những phụ nữ đã từng thất bại làm tổ. Đến hiện tại, nhiều nghiên cứu tiến hành để đánh giá ảnh hưởng của việc chuyển thêm phôi chất lượng kém đến kết quả mang thai, tuy nhiên kết quả vẫn gây tranh cãi. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá một cách toàn diện tác động của việc chuyển hai phôi nang, bao gồm một phôi chất lượng tốt và một phôi chất lượng kém, đến kết quả mang thai trong các chu kỳ chuyển phôi nang đông lạnh.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bao gồm 11.738 bệnh nhân trải qua chu kỳ chuyển phôi nang đông lạnh tại một Trung tâm Hỗ trợ sinh sản ở Trung Quốc từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 6 năm 2022. Nghiên cứu chia thành hai nhóm: nhóm SBT (chuyển một phôi nang chất lượng tốt, n=9.338) và nhóm DBT (chuyển một phôi nang chất lượng tốt cùng với một phôi chất lượng kém, n=2.400).
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS (phiên bản 22.0).
Kết quả
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhóm DBT có tỉ lệ thai lâm sàng (76,7% so với 67,3%), tỉ lệ trẻ sinh sống (65,6% so với 56,3%), tỉ lệ đa thai (41,4% so với 1,8%), tỉ lệ sinh non (29,3% so với 10,3%) và tỉ lệ sinh mổ (83,5% so với 74,8%) đều cao hơn so với nhóm SBT. Ngược lại, tỉ lệ làm tổ (59,1% so với 70,2%), tỉ lệ sẩy thai (11% so với 14,2%), tuổi thai (37,78±2,36 so với 38,78±1,83) và cân nặng khi sinh (3019,53±658,99 so với 3317,61±535,80) thấp hơn so với nhóm SBT. Tất cả các tỉ lệ đều cho kết quả có ý nghĩa thống kê (P< 0,001).
Phân tích bổ sung cho thấy, DBT mang lại cơ hội sinh sống cao hơn ở tất cả các phân nhóm, bao gồm thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung, nguyên nhân vô sinh, phương pháp thụ tinh, các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung, ... Phân tích hồi quy đa biến được thực hiện để đánh giá thêm ảnh hưởng của DBT đối với LBR. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa DBT và SBT đối với LBR trước khi điều chỉnh các yếu tố nhiễu (OR:1,48; 95% CI 1,35-1.63; P<0,001) và sau khi điều chỉnh tuổi mẹ và chỉ số BMI (aOR: 1,49; 95% CI: 1,35-1,63; P<0.001). Sau khi điều chỉnh thêm các yếu tố khác như thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung, nguyên nhân vô sinh, phương pháp thụ tinh, số chu kỳ điều trị, số lần mang thai và số lần sinh sống trước đó, DBT vẫn có mối liên hệ đáng kể với LBR (aOR: 1,55; 95% CI: 1,41-1,71; P<0.001).
Kết luận
Việc chuyển thêm phôi chất lượng kém cùng với phôi chất lượng tốt không gây tác động bất lợi lên kết quả mang thai. Nhóm DBT ghi nhận mức tăng nhẹ trong LBR nhưng gia tăng đáng kể nguy cơ đa thai. Ngoài ra, tỉ lệ làm tổ giảm đáng kể ở nhóm DBT. Kết quả cho thấy rằng việc chuyển thêm phôi chất lượng kém có thể làm giảm tiềm năng làm tổ của phôi chất lượng tốt khi cả hai được chuyển cùng lúc. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu phôi chất lượng cao có thể vượt qua các tín hiệu tiêu cực từ phôi chất lượng kém hay không. Nghiên cứu này cho thấy việc chuyển thêm phôi chất lượng kém làm giảm khả năng làm tổ, nhưng cơ chế sinh học chính xác vẫn cần được nghiên cứu thêm.
Nguồn: He T, Xue X, Shi J. Impact of inclusion of a poor-quality embryo with a good-quality embryo on pregnancy outcomes in vitrified-warmed blastocyst transfers. Reprod Biomed Online. 2024;49(3):104104. doi:10.1016/j.rbmo.2024.104104
Các tin khác cùng chuyên mục:







TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...
Năm 2020
Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
FACEBOOK