Tin tức
on Wednesday 12-02-2025 1:29am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Dương Ngô Hoàng Anh - IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm thu nhận từ mô buồng trứng (Ovarian tissue oocytes in vitro maturation – OTO-IVM) mang lại hy vọng làm mẹ cho những bệnh nhân ung thư phải cắt bỏ hoàn toàn buồng trứng. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã ghi nhận các trường hợp trẻ sinh từ OTO-IVM, song dữ liệu về tính an toàn của phương pháp này vẫn còn hạn chế. Cũng như việc thiếu kiến thức về khả năng thụ tinh, sự phát triển của phôi hay tiến triển thai kỳ thành công của OTO-IVM một phần ảnh hưởng đến quyết định cân nhắc lựa chọn phương pháp điều trị cho bệnh nhân.
Cấu trúc và sự trưởng thành noãn có thể ảnh hưởng đến khả năng làm tổ và sự phát triển của phôi. Tuy nhiên, khác với phôi, chất lượng noãn không được đánh giá bằng các xét nghiệm di truyền, mà chủ yếu trực tiếp thông qua đặc điểm hình thái trước và sau khi thụ tinh. Các bất thường hình thái có thể được chia làm: Ngoài bào tương (hình dạng noãn, màng trong suốt (zona pellucida – ZP), khoảng không quanh noãn (perivitelline space – PVS)) và trong bào tương (màu sắc và độ hạt của tế bào chất, sự hiện diện của lưới nội chất trơn (smooth endoplasmic reticulum – SER), không bào). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng noãn người thu nhận sau khi được kích thích buồng trứng có kiểm soát, có đến 60 – 80% có một hoặc nhiều bất thường về hình thái. Hiện nay, dữ liệu về chất lượng và các yếu tố có thể ảnh hưởng đến noãn trưởng thành trong ống nghiệm vẫn còn hạn chế. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá tác động của đặc điểm bệnh nhân và phòng xét nghiệm đến bất thường về hình thái noãn OTO-IVM.
Đây là nghiên cứu hồi cứu quan sát không đối chứng, đơn trung tâm. Dữ liệu được ghi nhận từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 2 năm 2021, với 53 bệnh nhân có ít nhất 1 noãn trưởng thành sau OTO-IVM. Bệnh nhân được chỉ định OTO-IVM gồm ung thư nội mạc tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư cổ tử cung, ung thư vú, u buồng trứng giáp biên ác tính, u lympho Hodgkin, Sarcoma Ewing. Các bệnh nhân không được kích thích buồng trứng trước khi phẫu thuật. Buồng trứng sau khi thu nhận được vận chuyển ở nhiệt độ 4oC hoặc 37oC và được phân lập các phức hợp cumulus – noãn non. Phức hợp sẽ được nuôi cấy nhóm trong môi trường IVM truyền thống hoặc IVM CAPA hai pha. Noãn sau khi tách sẽ được thủy tinh hóa hoặc tạo phôi bằng ICSI ngay lập tức. Hình thái noãn được đánh giá vào hai giai đoạn là sau khi tách và khi noãn trưởng thành.
Tổng cộng 355 noãn MII từ 53 bệnh nhân được sử dụng làm dữ liệu phân tích. Bất thường hình thái được quan sát trên 245 noãn (69,0%) và có đến 129 noãn có nhều hơn 1 bất thường (52,7%). Ba dạng bất thường phổ biến nhất là PVS rộng, phân mảnh thể cực và hạt tế bào chất (lần lượt là 44,9%, 30,6% và 29,4%).
Ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng, bất thường hình thái noãn được quan sát cao hơn 2,211 lần so với các nhóm bệnh còn lại. Các yếu tố từ khối u tiết ra như interleukin và các yếu tố hoại tử khối u có thể góp phần làm giảm khả năng sinh sản, ảnh hưởng quá trình sinh noãn. Rối loạn con đường truyền tín hiệu như siêu họ yếu tố tăng trưởng chuyển dạng beta không những thúc đẩy quá trình hình thành khối u ở bệnh nhân ung thư buồng trứng mà còn liên quan đến khả năng tăng sinh, chức năng tế bào hạt và cumulus.
Vấn đề liên quan phẫu thuật phụ khoa nội soi trong tiền sử bệnh, như phẫu thuật lạc nội mạc tử cung, cắt mô, cũng có thể gây bất lợi cho sự sinh noãn. Tế bào chất sẫm màu xuất hiện nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân có tiền sử bệnh phẫu thuật phụ khoa (P-value = 0,002; OR 16,652; 95% CI, 1,977–140,237; Cramer's V 0,187). Tuy nhiên, yếu tố tuổi lại không ảnh hưởng đến đặc điểm hình thái của noãn, ngoại trừ bất thường thể cực nhỏ được ghi nhận tăng 2,717 lần ở bệnh nhân trên 35 tuổi (95% KTC, 1,195–6,18).
Trong nghiên cứu, 3,3% noãn trưởng thành có sự hình thành SER. Mặc dù kết quả này tương đồng về tỷ lệ so với nghiên cứu trước đây của Nikiforov (2022), song quần thể nghiên cứu của Nikiforov là bệnh nhân được kích thích buồng trứng. Từ đó, nghiên cứu này đưa ra nhận định sự hình thành SER có thể không liên quan đến việc kích thích buồng trứng có kiểm soát ở bệnh nhân.
Nghiên cứu lần đầu tiên chứng minh nhiệt độ vận chuyển buồng trứng có ảnh hưởng đến chất lượng noãn khi kết quả ghi nhận noãn được vận chuyển trên đá 4oC có độ hạt tế bào chất tăng 2,569 lần so với noãn vận chuyển 37oC (95% KTC, 1,301–5,179). Cũng trong nghiên cứu này, thời gian vận chuyển không phải là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng noãn. Nhiệt độ thấp làm chậm các quá trình chuyển hóa và giảm khả năng tự phân hủy mô khi không có sự tưới máu mạch máu. Do đó, nhiều nghiên cứu OTO-IVM được thiết kế phù hợp để kết hợp song song với quy trình trữ mô buồng trứng. Tuy nhiên, các phức hợp cumulus – noãn khi tiếp xúc với nhiệt độ thấp dẫn đến những thay đổi về tế bào và rối loạn chuyển hóa, như rối loạn chức năng ty thể, tổn thương màng tế bào. Nghiên cứu khuyến nghị bệnh nhân OTO-IVM nên được vận chuyển buồng trứng ở nhiệt độ 37℃, đặc biệt đối với những bệnh nhân bị u ác tính buồng trứng. Đối với trường hợp OTO-IVM kết hợp trữ mô buồng trứng và vận chuyển đường dài có thể cân nhắc vận chuyển ở nhiệt độ thấp.
Bên cạnh đó, môi trường IVM được sử dụng không chỉ ảnh hưởng đến số lượng noãn trưởng thành mà còn ảnh hưởng đến chất lượng của chúng. Trước đây, việc áp dụng hệ thống CAPA-IVM do mang lại hiệu quả trưởng thành tốt, đảm bảo sự đồng bộ trưởng thành nhân và tế bào chất. Song, tỷ lệ hình thành thể cực lớn giảm khi sử dụng hệ thống CAPA-IVM hai pha so với môi trường IVM truyền thống (P-value = 0,034). Thể cực lớn có thể là kết quả của việc giảm phân bị suy yếu và trưởng thành nhân sớm, cũng như vị trí thoi vô sắc bất thường. Do đó, việc sử dụng môi trường CAPA-IVM hai pha có thể có lợi trong các chương trình OTO-IVM.
Dữ liệu noãn trưởng thành từ OTO-IVM được tổng hợp được xem là một điểm mạnh trong nghiên cứu. Hạn chế của nghiên cứu nằm ở thiết kế hồi cứu, cỡ mẫu ít, phần lớn noãn chưa trưởng thành để thụ tinh. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chưa đánh giá được kết cục lâu dài của noãn OTO-IVM với các đặc điểm hình thái khác nhau.
Tóm lại, OTO-IVM có thể trở thành phương pháp bảo tồn sinh sản duy nhất cho những bệnh nhân ung thư phải phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn buồng trứng. Cả đặc điểm của bệnh nhân và các yếu tố đến từ lâm sàng và phòng xét nghiệm đều có thể ảnh hưởng đến chất lượng của tế bào noãn.
Nguồn: Kashutina, Maria, et al. "Quality of IVM ovarian tissue oocytes: impact of clinical, demographic, and laboratory factors." Journal of Assisted Reproduction and Genetics (2024): 1-10.
Link bài báo:
https://link.springer.com/article/10.1007/s10815-024-03234-2
Nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm thu nhận từ mô buồng trứng (Ovarian tissue oocytes in vitro maturation – OTO-IVM) mang lại hy vọng làm mẹ cho những bệnh nhân ung thư phải cắt bỏ hoàn toàn buồng trứng. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã ghi nhận các trường hợp trẻ sinh từ OTO-IVM, song dữ liệu về tính an toàn của phương pháp này vẫn còn hạn chế. Cũng như việc thiếu kiến thức về khả năng thụ tinh, sự phát triển của phôi hay tiến triển thai kỳ thành công của OTO-IVM một phần ảnh hưởng đến quyết định cân nhắc lựa chọn phương pháp điều trị cho bệnh nhân.
Cấu trúc và sự trưởng thành noãn có thể ảnh hưởng đến khả năng làm tổ và sự phát triển của phôi. Tuy nhiên, khác với phôi, chất lượng noãn không được đánh giá bằng các xét nghiệm di truyền, mà chủ yếu trực tiếp thông qua đặc điểm hình thái trước và sau khi thụ tinh. Các bất thường hình thái có thể được chia làm: Ngoài bào tương (hình dạng noãn, màng trong suốt (zona pellucida – ZP), khoảng không quanh noãn (perivitelline space – PVS)) và trong bào tương (màu sắc và độ hạt của tế bào chất, sự hiện diện của lưới nội chất trơn (smooth endoplasmic reticulum – SER), không bào). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng noãn người thu nhận sau khi được kích thích buồng trứng có kiểm soát, có đến 60 – 80% có một hoặc nhiều bất thường về hình thái. Hiện nay, dữ liệu về chất lượng và các yếu tố có thể ảnh hưởng đến noãn trưởng thành trong ống nghiệm vẫn còn hạn chế. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá tác động của đặc điểm bệnh nhân và phòng xét nghiệm đến bất thường về hình thái noãn OTO-IVM.
Đây là nghiên cứu hồi cứu quan sát không đối chứng, đơn trung tâm. Dữ liệu được ghi nhận từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 2 năm 2021, với 53 bệnh nhân có ít nhất 1 noãn trưởng thành sau OTO-IVM. Bệnh nhân được chỉ định OTO-IVM gồm ung thư nội mạc tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư cổ tử cung, ung thư vú, u buồng trứng giáp biên ác tính, u lympho Hodgkin, Sarcoma Ewing. Các bệnh nhân không được kích thích buồng trứng trước khi phẫu thuật. Buồng trứng sau khi thu nhận được vận chuyển ở nhiệt độ 4oC hoặc 37oC và được phân lập các phức hợp cumulus – noãn non. Phức hợp sẽ được nuôi cấy nhóm trong môi trường IVM truyền thống hoặc IVM CAPA hai pha. Noãn sau khi tách sẽ được thủy tinh hóa hoặc tạo phôi bằng ICSI ngay lập tức. Hình thái noãn được đánh giá vào hai giai đoạn là sau khi tách và khi noãn trưởng thành.
Tổng cộng 355 noãn MII từ 53 bệnh nhân được sử dụng làm dữ liệu phân tích. Bất thường hình thái được quan sát trên 245 noãn (69,0%) và có đến 129 noãn có nhều hơn 1 bất thường (52,7%). Ba dạng bất thường phổ biến nhất là PVS rộng, phân mảnh thể cực và hạt tế bào chất (lần lượt là 44,9%, 30,6% và 29,4%).
Ở những bệnh nhân ung thư buồng trứng, bất thường hình thái noãn được quan sát cao hơn 2,211 lần so với các nhóm bệnh còn lại. Các yếu tố từ khối u tiết ra như interleukin và các yếu tố hoại tử khối u có thể góp phần làm giảm khả năng sinh sản, ảnh hưởng quá trình sinh noãn. Rối loạn con đường truyền tín hiệu như siêu họ yếu tố tăng trưởng chuyển dạng beta không những thúc đẩy quá trình hình thành khối u ở bệnh nhân ung thư buồng trứng mà còn liên quan đến khả năng tăng sinh, chức năng tế bào hạt và cumulus.
Vấn đề liên quan phẫu thuật phụ khoa nội soi trong tiền sử bệnh, như phẫu thuật lạc nội mạc tử cung, cắt mô, cũng có thể gây bất lợi cho sự sinh noãn. Tế bào chất sẫm màu xuất hiện nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân có tiền sử bệnh phẫu thuật phụ khoa (P-value = 0,002; OR 16,652; 95% CI, 1,977–140,237; Cramer's V 0,187). Tuy nhiên, yếu tố tuổi lại không ảnh hưởng đến đặc điểm hình thái của noãn, ngoại trừ bất thường thể cực nhỏ được ghi nhận tăng 2,717 lần ở bệnh nhân trên 35 tuổi (95% KTC, 1,195–6,18).
Trong nghiên cứu, 3,3% noãn trưởng thành có sự hình thành SER. Mặc dù kết quả này tương đồng về tỷ lệ so với nghiên cứu trước đây của Nikiforov (2022), song quần thể nghiên cứu của Nikiforov là bệnh nhân được kích thích buồng trứng. Từ đó, nghiên cứu này đưa ra nhận định sự hình thành SER có thể không liên quan đến việc kích thích buồng trứng có kiểm soát ở bệnh nhân.
Nghiên cứu lần đầu tiên chứng minh nhiệt độ vận chuyển buồng trứng có ảnh hưởng đến chất lượng noãn khi kết quả ghi nhận noãn được vận chuyển trên đá 4oC có độ hạt tế bào chất tăng 2,569 lần so với noãn vận chuyển 37oC (95% KTC, 1,301–5,179). Cũng trong nghiên cứu này, thời gian vận chuyển không phải là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng noãn. Nhiệt độ thấp làm chậm các quá trình chuyển hóa và giảm khả năng tự phân hủy mô khi không có sự tưới máu mạch máu. Do đó, nhiều nghiên cứu OTO-IVM được thiết kế phù hợp để kết hợp song song với quy trình trữ mô buồng trứng. Tuy nhiên, các phức hợp cumulus – noãn khi tiếp xúc với nhiệt độ thấp dẫn đến những thay đổi về tế bào và rối loạn chuyển hóa, như rối loạn chức năng ty thể, tổn thương màng tế bào. Nghiên cứu khuyến nghị bệnh nhân OTO-IVM nên được vận chuyển buồng trứng ở nhiệt độ 37℃, đặc biệt đối với những bệnh nhân bị u ác tính buồng trứng. Đối với trường hợp OTO-IVM kết hợp trữ mô buồng trứng và vận chuyển đường dài có thể cân nhắc vận chuyển ở nhiệt độ thấp.
Bên cạnh đó, môi trường IVM được sử dụng không chỉ ảnh hưởng đến số lượng noãn trưởng thành mà còn ảnh hưởng đến chất lượng của chúng. Trước đây, việc áp dụng hệ thống CAPA-IVM do mang lại hiệu quả trưởng thành tốt, đảm bảo sự đồng bộ trưởng thành nhân và tế bào chất. Song, tỷ lệ hình thành thể cực lớn giảm khi sử dụng hệ thống CAPA-IVM hai pha so với môi trường IVM truyền thống (P-value = 0,034). Thể cực lớn có thể là kết quả của việc giảm phân bị suy yếu và trưởng thành nhân sớm, cũng như vị trí thoi vô sắc bất thường. Do đó, việc sử dụng môi trường CAPA-IVM hai pha có thể có lợi trong các chương trình OTO-IVM.
Dữ liệu noãn trưởng thành từ OTO-IVM được tổng hợp được xem là một điểm mạnh trong nghiên cứu. Hạn chế của nghiên cứu nằm ở thiết kế hồi cứu, cỡ mẫu ít, phần lớn noãn chưa trưởng thành để thụ tinh. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chưa đánh giá được kết cục lâu dài của noãn OTO-IVM với các đặc điểm hình thái khác nhau.
Tóm lại, OTO-IVM có thể trở thành phương pháp bảo tồn sinh sản duy nhất cho những bệnh nhân ung thư phải phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn buồng trứng. Cả đặc điểm của bệnh nhân và các yếu tố đến từ lâm sàng và phòng xét nghiệm đều có thể ảnh hưởng đến chất lượng của tế bào noãn.
Nguồn: Kashutina, Maria, et al. "Quality of IVM ovarian tissue oocytes: impact of clinical, demographic, and laboratory factors." Journal of Assisted Reproduction and Genetics (2024): 1-10.
Link bài báo:
https://link.springer.com/article/10.1007/s10815-024-03234-2
Các tin khác cùng chuyên mục:








TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Thứ bảy ngày 14 . 6 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 06 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK