Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 19-02-2025 9:50am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
 
Tổng quan
Hiện nay, khoảng 10% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF) như một biện pháp hỗ trợ sinh sản (HTSS), tuy nhiên chỉ khoảng 5% noãn trong các chu kỳ này dẫn đến thai kỳ thành công. IVF cổ điển và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection – ICSI) là 2 phương pháp chính trong điều trị HTSS, dẫn đến tỉ lệ làm tổ khoảng 40-60%. Một số yếu tố độc lập đã được đưa ra để dự đoán kết quả IVF/ICSI, bao gồm tổng số phôi chất lượng tốt, tổng số phôi, tuổi người mẹ, số lượng nang thứ cấp (Antral follicle count – AFC) và chất lượng noãn. Ngoài ra, số lượng nang có kích thước 10–14 mm có thể ảnh hưởng đến kết quả tích lũy của IVF/ICSI như một dấu hiệu của chất lượng noãn. Đánh giá hình thái của noãn ảnh hưởng đến tỉ lệ thành công của thai kỳ. Hơn nữa, tác động của chất lượng phôi đến kết quả tích lũy của IVF/ICSI có mối tương quan với tuổi tác, đặc biệt là ở phụ nữ trên 40 tuổi.
Cho đến nay, nhu cầu tìm ra một dấu hiệu phù hợp và chính xác để phản ánh dự trữ buồng trứng và sau đó dự đoán thai kỳ ngày càng tăng. Hormone anti-Mullerian (AMH) là một yếu tố tăng trưởng peptide được sản xuất bởi các tế bào hạt của nang buồng trứng. Nồng độ AMH huyết thanh có thể phản ánh độ tuổi sinh học của phụ nữ như là yếu tố thúc đẩy nang buồng trứng sản xuất noãn; người ta đã quan sát thấy rằng nồng độ AMH có thể cung cấp thông tin chi tiết về chức năng buồng trứng sớm hơn cả nồng độ hormone kích thích nang noãn (Follicle-stimulating hormone – FSH) và số lượng nang AFC. Mặc dù nồng độ AMH không thay đổi đáng kể trong suốt chu kỳ kinh nguyệt, nhưng chúng có xu hướng giảm dần theo tuổi tác. Nồng độ AMH từ 1,66-4,52 ng/ml có liên quan đến noãn chất lượng tốt, có thể dẫn đến sự phát triển của phôi chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, giá trị ngưỡng của AMH để dự đoán đáp ứng kém vẫn chưa được xác định. Các nghiên cứu trước đây đã tiết lộ mối tương quan tích cực giữa mức AMH và chất lượng và số lượng noãn trong các chu kỳ IVF/ICSI, bất kể tuổi tác. Mức AMH cao hơn ở các mô hình động vật cũng chỉ ra việc thu thập noãn tốt hơn và số lượng phôi cao hơn sau khi thụ tinh. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lâm sàng báo cáo rằng trong chu kỳ IVF, mức AMH không thể dự đoán chất lượng noãn ở phụ nữ dưới 40 tuổi. Do đó, vai trò của AMH như một yếu tố dự báo chất lượng noãn trong ART vẫn còn gây tranh cãi.
Hơn nữa, một số nghiên cứu đã chứng minh mức AMH cao có liên quan đến tỉ lệ mang thai lâm sàng tăng ở phụ nữ trên 40 tuổi đã trải qua điều trị IVF/ICSI. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá mức AMH như một dấu hiệu của chất lượng noãn trong các chu kỳ điều trị HTSS.
 
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu đánh giá nồng độ AMH trong huyết thanh và mối liên quan của nó với chất lượng và số lượng noãn và phôi ở 320 phụ nữ từ 25-42 tuổi đã trải qua chu kỳ IVF/ICSI tại một phòng khám vô sinh ở Iran. Bệnh nhân được lên lịch thực hiện 523 chu kỳ IVF/ICSI từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 11 năm 2021. Nồng độ AMH trong huyết thanh ban đầu được đo bằng ELISA siêu nhạy (Beckman-Coulter Ireland Inc., Ireland) với độ nhạy là 0,2 ng/ml và hệ số biến thiên trong và giữa các xét nghiệm lần lượt là 8 và 12%.
 
Dựa trên nồng độ AMH trong huyết thanh, những bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu được chia thành hai nhóm: nhóm AMH cao (H) (AMH >1,1 ng/ml) và nhóm AMH thấp (L) (AMH ≤1,1 ng/ml). Ngưỡng AMH tối ưu là 1,1 ng/ml (độ nhạy 89% và độ đặc hiệu 35%) được lựa chọn dựa trên những phát hiện của một nghiên cứu trước đây do Harris và cộng sự thực hiện. Theo nghiên cứu do Zhang và cộng sự thực hiện, số lượng noãn trưởng thành (M2) được chia thành ba nhóm: thấp (0-2 noãn), trung bình (3-6 noãn) và cao (≥7 noãn).
 
Tiêu chuẩn loại trừ của nghiên cứu là những bệnh nhân có tiền sử lạc nội mạc tử cung, cắt bỏ buồng trứng một bên, xạ trị vùng chậu hoặc hóa trị, bị dị ứng hoặc chống chỉ định với điều trị bằng estradiol hoặc progesterone đường uống.
 
Kết quả
Đặc điểm nền:
Độ tuổi trung bình của 320 bệnh nhân là 35.0 (30.0-38.7) tuổi. Nồng độ AMH cơ bản là 2,3 (0,7-4,5) ng/ml trên mỗi bệnh nhân. 170 bệnh nhân được phân loại vào nhóm L và 213 bệnh nhân phân loại vào nhóm H. Chỉ số khối cơ thể (BMI) không khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (p=0,747). Thời gian vô sinh dài hơn ở nhóm H, với 4,0 (2,0–7,0) năm, so với nhóm L là 2,0 (1,0–5,0) năm (p=0,001). Tiền sử phá thai được báo cáo trên 17 bệnh nhân (15,9%) ở nhóm L và 30 bệnh nhân (14,1%) ở nhóm H (p=0,667).
Đặc điểm chu kỳ: 
Tổng cộng 523 chu kỳ IVF/ICSI đã được đánh giá ở 320 bệnh nhân. 193 bệnh nhân (60,3%) thực hiện một chu kỳ lấy noãn, 75 (23,4%) thực hiện hai chu kỳ lấy noãn, 35 (10,9%) thực hiện ba chu kỳ lấy noãn, 12 (3,8%) thực hiện bốn chu kỳ lấy noãn, 2 (0,6%) thực hiện năm chu kỳ lấy noãn và 3 (0,9%) thực hiện sáu chu kỳ lấy noãn. Trong số 474 chu kỳ IVF/ICSI có dữ liệu về phác đồ kích thích, 256 (54,0%) chu kỳ sử dụng phác đồ đối vận. Phác đồ phổ biến tiếp theo là PPOS với dydrogesterone, được sử dụng trong 158 (33,3%) chu kỳ. Phác đồ kích thích tối thiểu được sử dụng trong 21 (4,4%) chu kỳ.
Tương quan giữa nồng độ AMH với chất lượng noãn và các thông số phát triển phôi trong chu kỳ đầu tiên: 
Có tương quan dương đáng kể giữa nồng độ AMH và các đặc điểm của chu kỳ đầu tiên, cụ thể là số nang noãn được chọc hút (rho=0,741; p<0,001), số noãn thu được (rho=0,659; p<0,001), số noãn MII (rho=0,624; p<0,001), số noãn MI (rho=0,409; p<0,001), số noãn GV (rho=0,337; p<0,001), tổng số phôi (rho=0,577; p<0,001), phôi loại A (rho=0,419; p<0,001), phôi loại AB (rho=0,446; p<0,001) và phôi loại B (rho=0,356; p<0,001). Mặt khác, có mối tương quan âm giữa mức AMH và tổng số chu kỳ thực hiện (rho=−0,255; p<0,001).
Phân tích hồi quy logistic cho thấy AMH và độ tuổi là những yếu tố dự báo đáng kể về số lượng trứng MII giữa nhóm MII thấp và cao. Sự gia tăng một đơn vị nồng độ AMH có liên quan đến sự gia tăng 1,663 lần về số lượng trứng M2 (95% CI: 1,423–1,944). Ngoài ra, khi so sánh nhóm MII thấp và trung bình, AMH cũng là một yếu tố dự báo đáng kể (β=0,297, SE=0,074, Wald=16,043; p<0,001) với giá trị Exp(B) thấp hơn là 1,346 (95% CI:1,164–1,556). Những kết quả này cho thấy AMH là một yếu tố dự báo quan trọng về mức độ noãn MII bất kể tuổi tác.
So sánh nhóm AMH thấp và nhóm AMH cao: 
Số chu kỳ IVF/ICSI trung bình ở nhóm H thấp hơn so với nhóm L. Có sự khác biệt đáng kể trong tất cả các thông số IVF được phân tích giữa những bệnh nhân có mức AMH thấp và cao (p<0,001). Số nang noãn được hút, tổng số noãn thu được, noãn MI, MII và GV, và tổng số phôi và phôi loại A, B và AB cao hơn đáng kể ở nhóm H so với nhóm L (p<0,001).
 
Kết luận
Mức AMH có thể là một dấu hiệu hợp lý trong việc dự đoán số lượng và chất lượng của noãn khi điều trị IVF/ICSI. Mức AMH có tương quan nghịch với độ tuổi của người mẹ và những người có mức AMH cao hơn có xu hướng thực hiện ít chu kỳ IVF/ICSI hơn. Cũng có mối tương quan mạnh giữa các thông số khác nhau của noãn và phôi, bao gồm tổng số nang, số lượng noãn, noãn MII, tổng số phôi và phôi chất lượng tốt. Theo nghiên cứu này, cả AMH và độ tuổi đều có thể dự đoán độc lập số lượng noãn chất lượng cao. Các nghiên cứu trong tương lai nên hướng tới việc đi sâu hơn vào mối tương quan giữa mức AMH và cả chất lượng và số lượng phôi. Ngoài ra, sẽ có lợi khi xem xét ảnh hưởng của các yếu tố tinh trùng cũng như đánh giá tỉ lệ mang thai lâm sàng và thai sinh hóa.
 
Nguồn: Heidary Z, Masoumi M, Dashtkoohi M, et al. The Association of AMH Level with the Number and Quality of Oocytes in Women Undergoing IVF/ICSI: A Single-Center Study. J Reprod Infertil. 2024;25(1):38-45. doi:10.18502/jri.v25i1.15197

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

Năm 2020
Năm 2020

New World Saigon hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 06 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK