Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 20-02-2025 8:07am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
 
Tổng quan
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection ICSI) ban đầu được ứng dụng cho tình trạng vô sinh do yếu tố nam giới ở mức độ trung bình hoặc nghiêm trọng, tuy nhiên chỉ định của kỹ thuật này đã mở rộng đáng kể trong thập kỷ qua. Dữ liệu mới nhất từ ​​Hiệp hội Sinh sản người và Phôi học Châu Âu cho thấy ICSI được thực hiện trong 71,3% chu kỳ, bao gồm các chu kỳ vô sinh không do yếu tố nam giới và cho thấy sự cải thiện đáng kể về khả năng thụ tinh và mang thai.
 
Với tỉ lệ vô sinh liên quan đến tuổi tác ngày càng tăng, ICSI được khuyến nghị nhiều hơn IVF cổ điển. ​​Tuổi cao ở phụ nữ thường tương quan với chức năng buồng trứng suy giảm, cùng với đó là giảm về chất lượng và số lượng noãn. Chất lượng noãn giảm có thể dẫn đến thất bại thụ tinh hoặc thụ tinh bất thường. Người ta cho rằng IVF ở những bệnh nhân này có thể dẫn đến tỉ lệ thụ tinh thấp hơn và ICSI có thể khắc phục bất lợi về khả năng tương tác tinh trùng-noãn và các vấn đề thâm nhập liên quan đến tuổi cao hơn là bất thường về tinh trùng. Do đó, ICSI được ưu tiên để tăng số lượng phôi và tối đa hóa tỉ lệ làm tổ, đặc biệt là ở những phụ nữ tuổi cao, những người lấy được ít noãn hơn. Tuy nhiên, mặc dù được sử dụng ngày càng nhiều, những lợi thế rõ ràng của ICSI so với IVF vẫn chưa được xác nhận. Một số nghiên cứu thậm chí còn chỉ ra tác động tiêu cực của ICSI đối với kết quả mang thai. Một nghiên cứu bao gồm 745 phụ nữ trên 40 tuổi bị vô sinh không do yếu tố nam giới không chứng minh được ICSI vượt trội hơn IVF thông thường. Đối với phụ nữ lớn tuổi, chất lượng và số lượng noãn thu được là những chỉ số quan trọng đánh giá thành công và là yếu tố dự báo độc lập về tỉ lệ trẻ sinh sống và sinh sống tích lũy.
 
Hiện tại, dữ liệu về sự so sánh giữa ICSI và IVF ở những cặp vợ chồng vô sinh không do yếu tố nam với số lượng noãn thu được ít hơn còn hạn chế. Liệu ICSI có thể cải thiện kết quả sinh sản ở những trường hợp này hay không vẫn còn gây tranh cãi. Ngoài ra, có rất ít báo cáo về vai trò của ICSI ở những phụ nữ vô sinh không phải do yếu tố nam và không thu được nhiều hơn ba noãn. Có một nhu cầu cấp thiết về sự đồng thuận quốc tế về phương pháp thụ tinh phù hợp cho nhóm này. Do đó, nghiên cứu này tìm cách đánh giá vai trò của ICSI và IVF trong kết quả sinh sản của những phụ nữ lớn tuổi có số lượng noãn thu được ít hơn và vô sinh không phải do yếu tố nam.
 
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Thành Đô, Trung Quốc. Tổng cộng có 547 phụ nữ vô sinh không phải do yếu tố nam giới với ba hoặc ít hơn ba noãn được thu nhận từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 5 năm 2022. Trong số 547 bệnh nhân này, 334 người được điều trị bằng IVF và 213 người được điều trị bằng ICSI. Tiêu chí bao gồm độ tuổi ≥35 (bệnh nhân thuộc nhóm POSEIDON 2 và 4), chu kỳ đầu tiên, có buồng trứng hai bên và người chồng có chỉ số tinh dịch bình thường dựa trên các giá trị tham chiếu được khuyến nghị bởi Hướng dẫn phiên bản thứ năm của WHO năm 2010. Những bệnh nhân có tử cung bất thường có thể làm giảm khả năng tiếp nhận phôi đã bị loại trừ. Về việc lựa chọn phương pháp thụ tinh, nếu một cặp vợ chồng có tiền sử vô sinh nguyên phát trong hơn 5 năm, nhóm tác giả có xu hướng chọn ICSI cho những phụ nữ lớn tuổi với ít hơn ba noãn được lấy ra.
 
Các chỉ số được phân tích bao gồm số lượng noãn chọc hút được, noãn MII, tỉ lệ thụ tinh bình thường (noãn thụ tinh 2PN/số lượng noãn trưởng thành), thất bại thụ tinh hoàn toàn (tất cả noãn không thụ tinh được với một phương pháp thụ tinh nhất định), tỉ lệ phôi chất lượng tốt (phôi chất lượng tốt/noãn thụ tinh bình thường), tỉ lệ hủy chu kỳ, tỉ lệ thai lâm sàng trên mỗi lần chuyển, tỉ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển, tỉ lệ sảy thai, thai lâm sàng tích lũy trên mỗi lần lấy và tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy (CLBR) trên mỗi lần chuyển phôi.
 
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS V.16.0.
 
Kết quả
So sánh đặc điểm nền của hai nhóm bệnh nhân, không có sự khác biệt đáng kể về tuổi của phụ nữ, BMI, số năm vô sinh, FSH huyết thanh cơ bản, AMH, E2 vào ngày tiêm hCG và tổng liều gonadotropin. Nhóm ICSI cho thấy tỉ lệ vô sinh nguyên phát cao hơn so với nhóm IVF (17,66% so với 32,86%; p=0,000).
Không có sự khác biệt đáng kể về số lượng noãn thu được giữa hai nhóm (1,68±0,77 so với 1,65±0,74; p=0,672). Tuy nhiên, số lượng noãn MII và tỉ lệ hủy chu kỳ ở nhóm IVF cao hơn đáng kể so với nhóm ICSI (1,62±0,83 so với 1,28±0,76; p=0,000; 33,53% so với 24,41%; p=0,023). Cũng không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ phôi chất lượng tốt và số lượng chuyển phôi tươi giữa hai nhóm (49,58% so với 51,20%; p=0,711; 1,50±0,55 so với 1,36±0,49; p=0,188). So với nhóm IVF, tỉ lệ thụ tinh bình thường cao hơn ở nhóm ICSI (65,99% so với 76,56%; p=0,002).
Không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy trong tỉ lệ thai lâm sàng trên mỗi lần chuyển phôi (23,86% so với 18,97%; p=0,545), tỉ lệ sảy thai (19,05% so với 28,57%; p=0,595) và tỉ lệ trẻ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi (17,05% so với 13,51%; p=0,623) giữa hai nhóm. Sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, tỉ lệ thai lâm sàng và CLBR trên mỗi chu kỳ tương tự nhau ở cả hai nhóm (12,87% so với 11,27%; p=0,576; 9,28% so với 6,57%; p=0,261).
Kết luận
Nghiên cứu hiện tại chứng minh rằng ICSI đạt được tỉ lệ thụ tinh bình thường cao hơn và tỉ lệ thất bại thụ tinh toàn phần thấp hơn so với IVF ở những bệnh nhân lớn tuổi, vô sinh không do yếu tố nam và những người có số lượng noãn thu được là ba hoặc ít hơn ba. Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, bao gồm giới tính nữ, tuổi, BMI, số năm vô sinh, loại vô sinh, FSH huyết thanh cơ bản, AMH, E2 vào ngày tiêm hCG và độ dày nội mạc tử cung, không dẫn đến sự gia tăng tỉ lệ thai lâm sàng và CLBR. Cũng không có sự khác biệt đáng kể nào về kết quả mang thai giữa ICSI và IVF.
 
Dữ liệu từ nghiên cứu này có thể cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho việc ra quyết định lâm sàng. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng có một số hạn chế. Thứ nhất, là một phân tích hồi cứu với mức độ bằng chứng hạn chế, kết quả nghiên cứu sẽ bị ảnh hưởng bởi một số biến số gây nhiễu, chẳng hạn như sự khác biệt về thói quen hút thuốc, tình trạng tinh dịch của nam giới, chất lượng noãn và dân tộc của bệnh nhân. Cần có các nghiên cứu có đối chứng ngẫu nhiên có triển vọng. Thứ hai, nhóm nghiên cứu không xem hình thái tinh trùng là một phần của tiêu chí đủ điều kiện tham gia nghiên cứu. Lý do là, ngoài một số khiếm khuyết tinh trùng cụ thể liên quan đến các bệnh di truyền, có rất ít bằng chứng về sức mạnh tiên lượng của hình thái tinh trùng trong các kết quả sau IVF hoặc ICSI. Thứ ba, dựa trên phân tích tinh dịch tại thời điểm đánh giá ban đầu, hầu hết các đối tác nam trong nghiên cứu này chỉ bị chứng suy nhược tinh trùng. Trong thực hành lâm sàng, các thông số tinh dịch thường dao động. Do đó, kết quả của nghiên cứu nên được diễn giải thận trọng ở những quần thể không tham gia nghiên cứu.
 
Nguồn: Zhu S, Li H, Lv Z, Liang X, Dong L, Tian D. Intracytoplasmic sperm injection compared with in vitro fertilisation in patients with non-male factor infertility with low oocyte retrieval: a single-centre, retrospective cohort study. BMJ Open. 2024;14(11):e080688. Published 2024 Nov 14. doi:10.1136/bmjopen-2023-080688.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK