Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 19-02-2025 9:57am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Dương Ngô Hoàng Anh - IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
 
Chất lượng phôi là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kết cục của công nghệ hỗ trợ sinh sản và phụ thuộc vào cả hai yếu tố nam và nữ. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trước đây tập trung đánh giá tác động của yếu tố nữ và các yếu tố như độ tuổi, tình trạng thừa cân béo phì, yếu tố dự trữ buồng trứng. Mặc dù vẫn có một số nghiên cứu trên yếu tố nam, song các kết luận vẫn còn nhiều tranh cãi.
 
Phân mảnh DNA tinh trùng phản ánh tính toàn vẹn của DNA, liên quan đến sự tích tụ các đứt gãy DNA mạch đơn và mạch đôi. Tinh trùng bất thường DNA góp phần tăng nguy cơ tinh trùng có bộ nhiễm sắc thể lệch bội và tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản của nam giới. Do đó, chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng (sperm DNA fragmentation index – DFI) được đánh giá có thể sử dụng là một yếu tố tiên lượng kết cục ART và khuyến nghị đưa vào xét nghiệm thường quy song song với tinh dịch đồ theo WHO 2021.
 
Nghiên cứu của Liu (2023) đã chứng minh mối liên hệ giữa DFI tinh trùng và mật độ, độ di động và hình thái tinh trùng bình thường. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả tiên lượng của DFI đối với tình trạng vô sinh và chất lượng phôi vẫn chưa được cung cấp đầy đủ. Bên cạnh đó, ngưỡng đánh giá lâm sàng DFI trong các nghiên cứu cũng không có sự đồng nhất. Do đó, mục đích của nghiên cứu là thiết lập giá trị ngưỡng DFI phù hợp dựa trên chất lượng phôi và đánh giá tác động của DFI lên sự phát triển phôi sớm trong chu kỳ IVF và ICSI.
Đây là nghiên cứu hồi cứu trên 913 cặp vợ chồng vô sinh, không thụ thai thành công ít nhất 1 năm trước khi bắt đầu điều trị. Tổng cộng 1.771 chu kỳ ART từ tháng 1 năm 2021 đến tháng 12 năm 2022 được sử dụng làm dữ liệu phân tích, trong đó có 1.476 chu kỳ IVF và 295 chu kỳ ICSI. Tiêu chuẩn nhận của nghiên cứu là: (1) Vợ dưới 35 tuổi, có BMI < 28 kg/m2, AMH bình thường (AMH > 1,2 ng/mL), (2) Vợ có chu kỳ kinh nguyệt bình thường, (3) Hai vợ chồng không hút thuốc và có kết quả nhiễm sắc thể bình thường. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu gồm: (1) Tinh trùng thủ thuật, (2) Phương pháp điều trị IVF/ICSI hỗn hợp, (3) Các chu kỳ IVF/ICSI cho cặp vợ chồng hơn 3 chu kỳ, (4) Các chu kỳ có dữ liệu không đầy đủ.
 
Mẫu tinh dịch được thu nhận vào ngày chọc hút và thực hiện đánh giá tinh dịch đồ theo tiêu chuẩn WHO 2010 cùng xét nghiệm phân mảnh DNA tinh trùng bằng phân tích dòng chảy tế bào dùng AOT (acridine orange test). Sau đó, tinh dịch được lọc rửa để chuẩn bị ICSI tạo phôi. Kết cục của nghiên cứu là tỷ lệ thụ tinh 2PN, tỷ lệ phôi phân chia so với số noãn thụ tinh, số lượng phôi ngày 3, số lượng phôi tốt ngày 3, tỷ lệ phát triển phôi nang trên tổng các phôi nuôi cấy và số lượng phôi nang chất lượng cao.
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy DFI tỷ lệ thuận với độ tuổi và tỷ lệ nghịch với độ di động tiến tới, mật độ và hình dạng tinh trùng bình thường trong tổng 1.771 chu kỳ ART, cả chu kỳ ICSI và IVF. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu không quan sát thấy mối liên hệ nào giữa DFI và BMI (P > 0,05) trong cả 2 chu kỳ.
 
Ở nhóm IVF, DFI không có bất kỳ mối tương quan nào với với các thông số phôi học, bao gồm tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ thụ tinh 2PN, tỷ lệ phân phân chia, số lượng phôi ngày 3 (D3) và phôi D3 chất lượng tốt, tỷ lệ phát triển phôi nang và số lượng phôi nang chất lượng tốt (P> 0,05). Bên cạnh đó, nghiên cứu lần nữa khẳng định các yếu tố nữ như nồng độ AMH, độ tuổi, số lượng noãn thu nhận được, hay số lượng noãn MII sẽ có ảnh hưởng rõ rệt hơn đến chất lượng phôi so với các yếu tố nam. Mối tương quan giữa các yếu tố nam/nữ và các thông số phôi học trong chu kỳ ICSI cũng phù hợp với kết quả của chu kỳ IVF. Ngoài ra, cả hai nhóm chu kỳ IVF và chu kỳ ICSI đều cho kết quả BMI của nữ không ảnh hưởng đến các thông số phôi học.
 
Để tăng cỡ mẫu đánh giá, nhóm nghiên cứu đã phân tích tác động của DFI lên chất lượng phôi trên tổng 1.771 chu kỳ ART. Kết quả cho thấy DFI tinh trùng chỉ gây bất lợi đến tỷ lệ thụ tinh (P  < 0,05). Phân tích đường cong ROC cho thấy giá trị ngưỡng DFI là 21,15% có độ nhạy 36,7% và độ đặc hiệu 28,9% trong việc dự đoán tỷ lệ thụ tinh cao (≥ 80%). Mặc dù giá trị ngưỡng 21,15% có ý nghĩa thống kê, nhưng độ mạnh dự đoán lại tương đối yếu.
Những phát hiện trong nghiên cứu nhấn mạnh độ tuổi của nam ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển phôi sớm trong cả chu kỳ IVF và ICSI. Điều này có thể được giải thích bằng chiều dài telomere của tinh trùng giảm khi độ tuổi tăng, kết quả là chất lượng phôi cũng bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, việc tinh trùng tiếp xúc với các gốc oxy hoá tự do (Reactive Oxygen Species – ROS) tăng đứt gãy DNA tinh trùng, từ đó làm giảm khả năng vận động. Do đó, DFI có mối tương quan đáng kể với độ di động tiến tới của tinh trùng.
 
Từ các kết quả phôi học, nghiên cứu đưa ra nhận định các thông số tinh trùng dường như có ảnh hưởng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển phôi, từ khi thụ tinh đến giai đoạn phôi ngày 3. Đáng chú ý, DFI tinh trùng chỉ có ý nghĩa đến giai đoạn thụ tinh trong các thông số phôi học từ các chu kỳ ART. Ngưỡng DFI được sử dụng trong nghiên cứu là 21,15%, phù hợp với ngưỡng 15 đến 30% trong dự đoán vô sinh ở nam giới. Cũng như trong nghiên cứu của Jumeau (2022) chỉ ra DFI vượt quá 20% có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi sớm. Trong khi đó, vai trò của các yếu tố nữ được duy trì liên tục trong toàn bộ quá trình phát triển phôi sớm, từ giai đoạn thụ tinh đến quá trình hình thành phôi nang. Nguyên nhân do các sai hỏng DNA tinh trùng có thể được sửa sai nhờ vào cơ chế tự sửa sai của noãn. Do đó, noãn quyết định chủ yếu trong sự phát triển phôi.
 
Hạn chế của nghiên cứu gồm: (1) Việc thiết lập giá trị ngưỡng DFI chỉ tại một trung tâm có thể giảm độ tin cậy của nghiên cứu. Vì giá trị DFI phụ thuộc vào kỹ thuật phát hiện, các nghiên cứu tiếp theo cần phân tích dữ liệu đa trung tâm sử dụng cùng một kỹ thuật để xác định ngưỡng DFI. (2) Tác động của DFI lên toàn bộ quá trình phát triển phôi, cũng như các kết quả lâm sàng vẫn chưa được làm rõ do do bệnh nhân vẫn còn trong thời gian theo dõi, chưa cung cấp hết kết quả mang thai.
 
Tóm lại, ngưỡng DFI tinh trùng 21,15% có thể được sử dụng làm yếu tố tiên lượng cho tỷ lệ thụ tinh cao (≥ 80%). Tuy nhiên, hiệu quả dự đoán hạn chế và không có liên kết đáng kể với các thông số phôi học khác. Đánh giá DFI có thể cải thiện dự đoán phát triển phôi sớm trong quá trình điều trị ART, đặc biệt ở nam giới lớn tuổi hoặc những người có chất lượng tinh trùng kém.
 
Nguồn: Jiang, Huan, et al. "Sperm DNA fragmentation index: limited effectiveness on predicting embryo quality in assisted reproduction technology treatments." Reproductive Biology and Endocrinology 23.1 (2025): 14.
 
Link bài báo:
https://rbej.biomedcentral.com/articles/10.1186/s12958-025-01345-8

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK