Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 20-02-2025 7:32am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh

Tổng quan
Thủy tinh hóa là một phương pháp mang lại hiệu quả cao và trở thành chiến lược quan trọng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology - ART). Hiện nay, chuyển đơn phôi (Single embryo transfer - SET) được áp dụng phổ biến nhằm giảm thiểu tỉ lệ đa thai và những rủi ro liên quan. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp phôi được đông lạnh theo nhóm hai phôi hoặc nhiều hơn trên cùng một dụng cụ trữ. Đến thời điểm chuyển phôi, số phôi quyết định chuyển ít hơn số phôi trữ trên một dụng cụ trữ, do đó các phôi còn lại sẽ được đông lạnh lại cho chu kỳ tiếp theo.
 
Mặc dù việc chuyển phôi thủy tinh hóa hai lần được thực hiện nhiều tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản, vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng về việc những phôi này có khả năng phát triển và làm tổ tương tự như phôi thủy tinh hóa một lần hay không. Các nghiên cứu về chủ đề này vẫn còn hạn chế do sự khác biệt về phương pháp đông lạnh và giai đoạn phát triển của phôi tại thời điểm đông lạnh, dẫn đến các kết quả chưa đồng nhất. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích đánh giá tỉ lệ mang thai và tỉ lệ trẻ sinh sống giữa phôi được thuỷ tinh hoá hai lần so với phôi được thuỷ tinh hoá một lần. Từ đó, cung cấp dữ liệu giúp định hướng tốt hơn cho bệnh nhân. Ngoài ra, nghiên cứu so sánh thêm kết quả lâm sàng giữa việc nuôi cấy ít nhất một ngày trước khi thuỷ tinh hoá lần 2 so với thuỷ tinh hoá lại ngay lập tức sau rã đông.
 
Vật liệu và phương pháp
Đây là nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 3 năm 2021 tại phòng khám hiếm muộn ở Hy Lạp. Nghiên cứu chia thành 2 nhóm: nhóm nghiên cứu gồm phôi trải qua thuỷ tinh hoá hai lần và nhóm đối chứng gồm phôi trải qua thuỷ tinh hoá một lần. Những chu kỳ có xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) hoặc sử dụng noãn đông lạnh đã được loại trừ khỏi nghiên cứu. Tất cả phôi đều được chuyển ở giai đoạn phôi nang ở cả hai nhóm.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SAS (phiên bản 9.4).
 
Kết quả
Trong nghiên cứu này, 381 phôi nang nhóm nghiên cứu được chuyển cho 252 bệnh nhân và 780 phôi nang nhóm đối chứng được chuyển cho 450 bệnh nhân. Kết quả chuyển phôi cho thấy, có 80 trẻ sơ sinh trong nhóm nghiên cứu và 212 trẻ sơ sinh trong nhóm đối chứng.
 
Phân tích thống kê cho thấy các kết quả lâm sàng bất lợi khi so sánh giữa nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng. Cụ thể, tỉ lệ beta HCG dương (46% so với 63,3%; p<0,05), tỉ lệ thai lâm sàng (34,9% so với 52,2%; p<0,05), tỉ lệ thai diễn tiến (31,3% so với 47,3%; p<0,05) và tỉ lệ trẻ sinh sống (30,2% so với 45,6%; p<0.05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thai sinh hóa (24,1% so với 17,9%; p>0,05) và tỉ lệ sảy thai (10,2% so với 9,7%; p>0,05) giữa hai nhóm, mặc dù có xu hướng tăng tỉ lệ thai sinh hóa ở nhóm nghiên cứu. Ngoài ra, không có sự khác biệt về cân nặng trung bình của trẻ sơ sinh giữa hai nhóm (2950g so với 2837g; p>0,05).
 
Để đánh giá ảnh hưởng của việc nuôi cấy phôi trước khi thủy tinh hóa lần hai, nhóm nghiên cứu được chia thành hai phân nhóm:
  • Phân nhóm A (nuôi cấy trước khi thủy tinh hóa lần hai): 332 phôi (208 chu kỳ chuyển phôi) được nuôi cấy ít nhất 24 giờ giữa lần rã đông đầu tiên và lần đông lạnh lần 2. Phôi ở giai đoạn phân chia được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang (24-72 giờ), sau đó được đông lạnh lại.
  • Phân nhóm B (thủy tinh hóa lại ngay lập tức): 49 phôi nang (44 chu kỳ chuyển phôi) được đông lạnh lại trong cùng ngày rã đông đầu tiên (thời gian giữa hai lần thủy tinh hóa dưới 4 giờ).
Kết quả cho thấy, phân nhóm A có tỉ lệ beta HCG dương (49% so với 31,8%; p<0,05) và tỉ lệ thai lâm sàng (38% và 20,5%; p<0,05) cao hơn so với phân nhóm B. Tuy nhiên, tỉ lệ thai diễn tiến (33,7% so với 20,5%; p>0,05) và tỉ lệ trẻ sinh sống (32,2% so với 20,5%; p>0,05) không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa hai phân nhóm. Ngoài ra, mặc dù tỉ lệ thai sinh hóa ở phân nhóm B có xu hướng cao hơn (35,7% so với 22,5%), nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỉ lệ sảy thai ở phân nhóm A cao hơn đáng kể so với phân nhóm B (11,4% so với 0%; p<0,05). Không có sự khác biệt về cân nặng trung bình của trẻ sơ sinh giữa hai phân nhóm (2963g so với 3222g; p>0,05). Ngoài ra, khi so sánh với nhóm đối chứng, tất cả các tỉ lệ (tỉ lệ beta HCG dương, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ trẻ sinh sống) ở hai phân nhóm A và B đều thấp hơn (p<0,05).
Kết luận
Phôi trải qua thủy tinh hóa hai lần vẫn đạt được tỉ lệ thành công chấp nhận được và có thể dẫn đến thai kỳ khỏe mạnh. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy thủy tinh hóa hai lần có ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả lâm sàng với tỉ lệ trẻ sinh sống giảm đáng kể. Điều này có thể cho thấy rằng dù phôi thủy tinh hóa hai lần vẫn giữ được tính toàn vẹn về hình thái, nhưng có thể xảy ra những thay đổi ở cấp độ phân tử hoặc cấu trúc siêu vi, ảnh hưởng đến khả năng phát triển của phôi. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng đông lạnh có thể gây tổn thương ADN, làm thay đổi biểu hiện gen và ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển của phôi, đặc biệt ở các phôi trải qua đông lạnh nhiều lần. Do đó, sự suy giảm tỉ lệ thành công có thể phản ánh tác động tích lũy khi phôi trải qua quá trình đông lạnh hai lần. Nghiên cứu này hỗ trợ việc sử dụng thủy tinh hóa hai lần như một biện pháp quản lý phôi dư sau rã đông, đồng thời cung cấp cơ sở dữ liệu rõ ràng về các kết quả liên quan đến tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống. Nhóm tác giả khuyến nghị nên áp dụng các chiến lược nhằm giảm thủy tinh hóa hai lần, như sắp xếp số lượng phôi đông lạnh trên mỗi dụng cụ trữ phù hợp với kế hoạch điều trị của bệnh nhân. Ngoài ra, nếu cần phải thủy tinh hóa hai lần, việc kéo dài thời gian nuôi cấy phôi trước khi đông lạnh lại có thể là một lựa chọn hữu ích. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu tiến cứu trong tương lai để xác nhận những kết quả này.
 
Nghiên cứu này có cỡ mẫu lớn nhất được báo cáo cho đến nay, tuy nhiên có một số hạn chế. Thứ nhất, đây là một nghiên cứu hồi cứu, do đó không thể kiểm soát hoàn toàn các yếu tố gây nhiễu như trong nghiên cứu tiến cứu. Thứ hai, phôi trong nghiên cứu được thủy tinh hóa ở các giai đoạn phát triển khác nhau trong lần đông lạnh đầu tiên.
 
Nguồn: Oraiopoulou C, Karagianni M, Papatheodorou A, et al. Double vitrification of embryos adversely affects clinical outcomes. JBRA Assist Reprod. 2024;28(3):399-404. Published 2024 Aug 26. doi:10.5935/1518-0557.20240014.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK