Tin tức
on Friday 28-02-2025 2:09am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trương Trần Minh Anh – IVF Tâm Anh
Tổng quan
Thoi vô sắc trong noãn trưởng thành có thể nằm gần hoặc xa thể cực thứ nhất (polar body - PB), hoặc không thể quan sát được. Một số nghiên cứu cho thấy khả năng quan sát thoi vô sắc có ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh bình thường nhưng tác động của vị trí thoi vô sắc đối với sự phát triển phôi chưa được xác định rõ ràng. Các yếu tố như quá trình trưởng thành tế bào chất, kỹ thuật tách noãn trước ICSI, dự trữ buồng trứng thấp và kích thích quá mức có thể ảnh hưởng đến vị trí và khả năng quan sát thoi vô sắc. Các phác đồ kích thích buồng trứng có kiểm soát (controlled ovarian stimulation - COS) khác nhau có tác động khác nhau đến môi trường nội tiết và sự phát triển nang noãn. Tuy nhiên, còn ít nghiên cứu về mối quan hệ giữa vị trí thoi vô sắc và tỷ lệ thụ tinh/phát triển phôi theo các phác đồ này. Do đó, nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các phác đồ COS khác nhau, bao gồm kích thích buồng trứng kết hợp progestin (progestin-primed ovarian stimulation - PPOS), phác đồ hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) đồng vận dài, ngắn và phác đồ GnRH đối vận đến khả năng quan sát được thoi vô sắc, vị trí của thoi vô sắc trong noãn và kết quả lâm sàng sau ICSI.
Vật liệu và phương pháp
Trước khi ICSI, vị trí của thoi vô sắc (θ) ngay bên dưới thể cực được xác định là 0° và được phân loại như sau: θ = 0°, 0° < θ ≤ 30°, 30° < θ ≤ 60°, 60° < θ ≤ 90°, 90° < θ ≤ 180°, giữa PB và oolemma (màng noãn), và không nhìn thấy. Kết quả lâm sàng sau ICSI được phân tích hồi cứu, dữ liệu được thu thập từ 1291 chu kỳ ICSI từ tháng 01/2020 đến tháng 07/2023. Các chu kỳ ICSI sử dụng noãn trữ lạnh, tinh trùng trữ, tinh trùng thu nhận từ phẫu thuật hoặc noãn được hoạt hóa nhân tạo bằng calcium ionophore đã bị loại ra khỏi phân tích.
Kết quả
Tỷ lệ quan sát được thoi vô sắc tăng lên khi khoảng thời gian hCG-ICSI kéo dài hơn (từ 59,6% đến 89,6%). Bệnh nhân có noãn quan sát được thoi vô sắc có độ tuổi trung bình thấp hơn đáng kể so với nhóm không quan sát được (35,8 ± 4,8 tuổi so với 36,8 ± 5,1 tuổi, p < 0,001). Tỷ lệ noãn phát triển đến giai đoạn thụ tinh bình thường cao hơn đáng kể ở nhóm có thoi vô sắc quan sát được so với nhóm không quan sát được ở tất cả các phác đồ COS (p < 0,01), nhưng không có sự khác biệt dựa trên vị trí của thoi vô sắc (0° ≤ θ ≤ 180°) và giữa các phác đồ trong nhóm có thoi vô sắc quan sát được. Tỷ lệ mang thai, sinh sống/đang mang thai (LB/OP) và sảy thai không khác biệt theo khả năng quan sát hoặc vị trí của thoi vô sắc. Trong phân tích hồi quy logistic đa biến, tuổi của phụ nữ có liên quan đến vị trí thoi vô sắc, và khả năng thoi vô sắc nằm ở các vị trí 30° < θ ≤ 60°, 60° < θ ≤ 90°, hoặc 90° < θ ≤ 180° tăng cao hơn so với θ = 0° ở phụ nữ lớn tuổi hơn (tỷ số odds: 1,020, 1,030 và 1,060 tương ứng; p < 0,05). Sau ICSI, phác đồ PPOS cho kết quả tốt hơn đáng kể với tỷ lệ thụ tinh bình thường, tỷ lệ phôi hình thành và tỷ lệ mang thai cao hơn so với các phác đồ khác. Đặc biệt, tỷ lệ LB/OP của nhóm PPOS cao hơn so với các phác đồ còn lại, trong khi tỷ lệ sảy thai không có sự khác biệt giữa các nhóm. Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ có túi thai (GS+), tỷ lệ LB/OP hoặc tỷ lệ sảy thai giữa nhóm có và không có thoi vô sắc quan sát được. Khả năng quan sát thoi vô sắc cao hơn đáng kể ở phác đồ PPOS (85,5%) và GnRH đồng vận ngắn (86,8%) so với phác đồ GnRH đối vận (81,2%, p < 0,01 và p < 0,05).
Bàn luận
Nghiên cứu này cho thấy rằng sau ICSI, tỷ lệ thụ tinh bình thường phụ thuộc vào việc thoi vô sắc có thể nhìn thấy trong noãn bào nhưng không bị ảnh hưởng bởi vị trí thoi vô sắc trong bào tương noãn (0° ≤ θ ≤ 180°). Khi noãn bào đã thụ tinh phát triển thành phôi nang, khả năng quan sát được thoi vô sắc trong noãn bào không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng, như mang thai, sinh sống hoặc sảy thai sau ICSI, bất kể phác đồ COS được sử dụng. Noãn bị lão hóa trong môi trường nuôi cấy in vitro ảnh hưởng đến vị trí thoi vô sắc so với thể cực đầu tiên, làm thể cực đầu tiên có xu hướng thoái hóa và lệch vị trí với thoi vô sắc. Thoi vô sắc lệch nhiều (90° <θ ≤ 180°) có liên quan đến chất lượng noãn kém hơn và tỷ lệ vỡ noãn cao hơn sau ICSI. Phác đồ PPOS duy trì tỷ lệ quan sát được thoi vô sắc ổn định từ lúc tiêm hCG đến ICSI, trong khi các phác đồ GnRH chủ vận và đối vận cho thấy tỷ lệ này tăng dần theo thời gian. So sánh giữa các phác đồ COS, PPOS và GnRH ngắn có nhiều noãn bào quan sát được thoi vô sắc hơn so với GnRH đối vận. Thoi vô sắc thường nằm dưới thể cực đầu tiên (θ = 0°) nhiều hơn trong phác đồ PPOS. Tuổi phụ nữ có mối liên hệ với vị trí thoi vô sắc, khi tuổi càng cao, thoi vô sắc càng có xu hướng lệch khỏi thể cực, ảnh hưởng đến chất lượng noãn và trạng thái phôi. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy tuổi tác không ảnh hưởng đến các kết quả lâm sàng quan trọng như tỷ lệ thụ tinh, phát triển phôi, mang thai, sinh sống hoặc sảy thai. Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy rằng vị trí của thoi vô sắc trong bào tương không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng, bao gồm tỷ lệ thụ tinh bình thường, phát triển phôi nang, LB/OP hoặc sảy thai, khi sử dụng bất kỳ phác đồ COS.
Nguồn: Inoue, T., Matsuo, Y., Taguchi, S., Tsujimoto, Y., Uemura, M., & Yamashita, Y. (2024). The relationship between controlled ovarian stimulation protocol, meiotic spindle visibility, position of the meiotic spindle relative to the polar body in the human oocyte, and clinical outcomes following ICSI. Reproductive Medicine and Biology, 23(1), e12601.
Tổng quan
Thoi vô sắc trong noãn trưởng thành có thể nằm gần hoặc xa thể cực thứ nhất (polar body - PB), hoặc không thể quan sát được. Một số nghiên cứu cho thấy khả năng quan sát thoi vô sắc có ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh bình thường nhưng tác động của vị trí thoi vô sắc đối với sự phát triển phôi chưa được xác định rõ ràng. Các yếu tố như quá trình trưởng thành tế bào chất, kỹ thuật tách noãn trước ICSI, dự trữ buồng trứng thấp và kích thích quá mức có thể ảnh hưởng đến vị trí và khả năng quan sát thoi vô sắc. Các phác đồ kích thích buồng trứng có kiểm soát (controlled ovarian stimulation - COS) khác nhau có tác động khác nhau đến môi trường nội tiết và sự phát triển nang noãn. Tuy nhiên, còn ít nghiên cứu về mối quan hệ giữa vị trí thoi vô sắc và tỷ lệ thụ tinh/phát triển phôi theo các phác đồ này. Do đó, nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các phác đồ COS khác nhau, bao gồm kích thích buồng trứng kết hợp progestin (progestin-primed ovarian stimulation - PPOS), phác đồ hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) đồng vận dài, ngắn và phác đồ GnRH đối vận đến khả năng quan sát được thoi vô sắc, vị trí của thoi vô sắc trong noãn và kết quả lâm sàng sau ICSI.
Vật liệu và phương pháp
Trước khi ICSI, vị trí của thoi vô sắc (θ) ngay bên dưới thể cực được xác định là 0° và được phân loại như sau: θ = 0°, 0° < θ ≤ 30°, 30° < θ ≤ 60°, 60° < θ ≤ 90°, 90° < θ ≤ 180°, giữa PB và oolemma (màng noãn), và không nhìn thấy. Kết quả lâm sàng sau ICSI được phân tích hồi cứu, dữ liệu được thu thập từ 1291 chu kỳ ICSI từ tháng 01/2020 đến tháng 07/2023. Các chu kỳ ICSI sử dụng noãn trữ lạnh, tinh trùng trữ, tinh trùng thu nhận từ phẫu thuật hoặc noãn được hoạt hóa nhân tạo bằng calcium ionophore đã bị loại ra khỏi phân tích.
Kết quả
Tỷ lệ quan sát được thoi vô sắc tăng lên khi khoảng thời gian hCG-ICSI kéo dài hơn (từ 59,6% đến 89,6%). Bệnh nhân có noãn quan sát được thoi vô sắc có độ tuổi trung bình thấp hơn đáng kể so với nhóm không quan sát được (35,8 ± 4,8 tuổi so với 36,8 ± 5,1 tuổi, p < 0,001). Tỷ lệ noãn phát triển đến giai đoạn thụ tinh bình thường cao hơn đáng kể ở nhóm có thoi vô sắc quan sát được so với nhóm không quan sát được ở tất cả các phác đồ COS (p < 0,01), nhưng không có sự khác biệt dựa trên vị trí của thoi vô sắc (0° ≤ θ ≤ 180°) và giữa các phác đồ trong nhóm có thoi vô sắc quan sát được. Tỷ lệ mang thai, sinh sống/đang mang thai (LB/OP) và sảy thai không khác biệt theo khả năng quan sát hoặc vị trí của thoi vô sắc. Trong phân tích hồi quy logistic đa biến, tuổi của phụ nữ có liên quan đến vị trí thoi vô sắc, và khả năng thoi vô sắc nằm ở các vị trí 30° < θ ≤ 60°, 60° < θ ≤ 90°, hoặc 90° < θ ≤ 180° tăng cao hơn so với θ = 0° ở phụ nữ lớn tuổi hơn (tỷ số odds: 1,020, 1,030 và 1,060 tương ứng; p < 0,05). Sau ICSI, phác đồ PPOS cho kết quả tốt hơn đáng kể với tỷ lệ thụ tinh bình thường, tỷ lệ phôi hình thành và tỷ lệ mang thai cao hơn so với các phác đồ khác. Đặc biệt, tỷ lệ LB/OP của nhóm PPOS cao hơn so với các phác đồ còn lại, trong khi tỷ lệ sảy thai không có sự khác biệt giữa các nhóm. Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ có túi thai (GS+), tỷ lệ LB/OP hoặc tỷ lệ sảy thai giữa nhóm có và không có thoi vô sắc quan sát được. Khả năng quan sát thoi vô sắc cao hơn đáng kể ở phác đồ PPOS (85,5%) và GnRH đồng vận ngắn (86,8%) so với phác đồ GnRH đối vận (81,2%, p < 0,01 và p < 0,05).
Bàn luận
Nghiên cứu này cho thấy rằng sau ICSI, tỷ lệ thụ tinh bình thường phụ thuộc vào việc thoi vô sắc có thể nhìn thấy trong noãn bào nhưng không bị ảnh hưởng bởi vị trí thoi vô sắc trong bào tương noãn (0° ≤ θ ≤ 180°). Khi noãn bào đã thụ tinh phát triển thành phôi nang, khả năng quan sát được thoi vô sắc trong noãn bào không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng, như mang thai, sinh sống hoặc sảy thai sau ICSI, bất kể phác đồ COS được sử dụng. Noãn bị lão hóa trong môi trường nuôi cấy in vitro ảnh hưởng đến vị trí thoi vô sắc so với thể cực đầu tiên, làm thể cực đầu tiên có xu hướng thoái hóa và lệch vị trí với thoi vô sắc. Thoi vô sắc lệch nhiều (90° <θ ≤ 180°) có liên quan đến chất lượng noãn kém hơn và tỷ lệ vỡ noãn cao hơn sau ICSI. Phác đồ PPOS duy trì tỷ lệ quan sát được thoi vô sắc ổn định từ lúc tiêm hCG đến ICSI, trong khi các phác đồ GnRH chủ vận và đối vận cho thấy tỷ lệ này tăng dần theo thời gian. So sánh giữa các phác đồ COS, PPOS và GnRH ngắn có nhiều noãn bào quan sát được thoi vô sắc hơn so với GnRH đối vận. Thoi vô sắc thường nằm dưới thể cực đầu tiên (θ = 0°) nhiều hơn trong phác đồ PPOS. Tuổi phụ nữ có mối liên hệ với vị trí thoi vô sắc, khi tuổi càng cao, thoi vô sắc càng có xu hướng lệch khỏi thể cực, ảnh hưởng đến chất lượng noãn và trạng thái phôi. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy tuổi tác không ảnh hưởng đến các kết quả lâm sàng quan trọng như tỷ lệ thụ tinh, phát triển phôi, mang thai, sinh sống hoặc sảy thai. Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy rằng vị trí của thoi vô sắc trong bào tương không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng, bao gồm tỷ lệ thụ tinh bình thường, phát triển phôi nang, LB/OP hoặc sảy thai, khi sử dụng bất kỳ phác đồ COS.
Nguồn: Inoue, T., Matsuo, Y., Taguchi, S., Tsujimoto, Y., Uemura, M., & Yamashita, Y. (2024). The relationship between controlled ovarian stimulation protocol, meiotic spindle visibility, position of the meiotic spindle relative to the polar body in the human oocyte, and clinical outcomes following ICSI. Reproductive Medicine and Biology, 23(1), e12601.
Từ khóa: kích thích buồng trứng, tuổi mẹ, tiêm tinh trùng vào bào tương noãn, thoi vô sắc, khả năng quan sát
Các tin khác cùng chuyên mục:











TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK