Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 20-07-2024 8:42am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư, ThS. Nguyễn Huyền Minh Thụy IVF Tâm Anh

Tổng quan
Trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF), nuôi cấy phôi nang ngày 5 (D5), ngày 6 (D6) dần trở nên phổ biến trong điều trị IVF. Các trung tâm hướng tới khuyến khích bệnh nhân chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang nhằm cải thiện tỉ lệ mang thai (Pregnancy rate - PR) và tỉ lệ làm tổ (Implantation rate - IR) trên mỗi lần chuyển phôi.
 
Hiện nay, còn nhiều tranh cãi giữa sự khác biệt về kết quả chuyển phôi ngày 5 và ngày 6. Một nghiên cứu phân tích tổng hợp cho rằng chuyển phôi phát triển chậm D6 có kết quả mang thai tương đương với phôi D5. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cho thấy chuyển phôi trữ D5 có ưu điểm hơn so với D6. Tất cả nghiên cứu trên đều không xét đến xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ nhằm sàng lọc thể lệch bội (PGT-A). 
 
Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả lâm sàng của các lần chuyển đơn phôi trữ (Frozen embryo transfer - FET) vào D5 hoặc D6 trong các chu kỳ đã thực hiện PGT-A.
 
Vật liệu và phương pháp
Tiêu chí lựa chọn bao gồm bệnh nhân có ít nhất một phôi nguyên bội hoặc phôi khảm với chất lượng tốt và bệnh nhân chỉ chuyển đơn phôi trữ với phôi nguyên bội hoặc phôi khảm. Nghiên cứu này tổng hợp, phân tích các kết quả của 527 chu kỳ chuyển phôi trữ được thực hiện PGT-A tại bệnh viện Lee Women's, Đài Loan từ tháng 7/2016 đến 10/2020. Tế bào sinh thiết từ tế bào lá nuôi phôi được phân tích bằng kỹ thuật di truyền giải trình tự thế hệ mới với độ phân giải cao (hr-NGS). Các kết quả được phân tích và so sánh giữa nhóm D5 và D6 bao gồm: tỉ lệ bội, tỉ lệ mang thai, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ sinh đôi cùng trứng và tỉ lệ trẻ sinh sống.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS (phiên bản 23.0).

Kết quả
Tổng cộng 8449 phôi sinh thiết được đưa vào phân tích, trong đó có 4883 phôi D5 (57,8%) và 3566 phôi D6 (42,2%). Không có khác biệt về tỉ lệ phôi nguyên bội, lệch bội, tỉ lệ khảm giữa nhóm chuyển phôi D5 và D6. Đặc biệt, không có sự khác biệt về các tỉ lệ nói trên khi phân nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (<38 tuổi) và bệnh nhân lớn tuổi (>38 tuổi). Cụ thể, tỉ lệ phôi nguyên bội giữa chuyển phôi sinh thiết D5 và D6 là 33,7% so với 30,0% ở nhóm <38 tuổi và 19,1% so với 14,6% ở nhóm >38 tuổi; tỉ lệ phôi lệch bội là 22,3% so với 28,2% ở nhóm <38 tuổi và 52,4% so với 57,7% ở >38 tuổi; tỉ lệ khảm là 44,0% so với 41,8% ở nhóm <38 tuổi và 28,4% so với 27,6% nhóm >38 tuổi. Có thể thấy tỉ lệ lệch bội của phôi tăng dần theo tuổi mẹ.
 
Xét về hiệu quả chuyển phôi trữ giữa 2 nhóm, không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về tỉ lệ có thai (53,4% so với 52,4%; p=0,838), tỉ lệ trẻ sinh sống (46,1% so với 44,1%; p=0,682) và tỉ lệ sảy thai (13,7% so với 16,0%; p=0,858). Không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sinh đôi cùng trứng (2,8% so với 6,8%). Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể về cân nặng sơ sinh giữa nhóm D5 và D6 (3089 ± 440 so với 2935 ± 504; p=0,024).
 
Đối với kết quả phân theo nhóm tuổi, ở nhóm <38 tuổi, không có sự khác biệt về hiệu quả chuyển phôi giữa 2 nhóm phôi D5 và D6 dựa trên các tiêu chí: tỉ lệ thai lâm sàng (51,5% so với 54,2%; p=0,668), tỉ lệ làm tổ (53,4% so với 57,8%; p=0,483) và tỉ lệ trẻ sinh sống (43,1% so với 44,6%; p=0,81). Kết quả tương tự với nhóm >38 tuổi về tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống (tỉ lệ làm tổ 57,4% so với 50,0%; tỉ lệ thai lâm sàng 57,4% so với 53,3%; tỉ lệ trẻ sinh sống 49,2% so với 43,3%). Tỉ lệ sảy thai và tỉ lệ sinh đôi cùng trứng không có sự khác biệt giữa hai nhóm tuổi.
 
Bàn luận
Các nghiên cứu trước kia chỉ ra rằng phôi nang phát triển chậm thường có tỉ lệ lệch bội cao hơn vì thế phôi nang D6 bị lệch bội cao hơn, tỉ lệ có thai và tỉ lệ sinh sống thấp hơn. Nguyên nhân có thể liên quan đến chất lượng phôi kém, phôi lệch bội cao và suy giảm chất dinh dưỡng ở phôi D6. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây hầu hết không thực hiện PGT-A.

Điểm mạnh của nghiên cứu này là các chu kỳ chuyển phôi trữ từ phôi PGT-A FET và chuyển đơn phôi nang D5 và D6. Kết quả của nghiên cứu hồi cứu cho thấy chuyển phôi trữ D5 và D6 sau khi thực hiện PGT-A không có sự khác biệt về tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống kể cả giữa các độ tuổi khác nhau. Do đó, chuyển phôi nguyên bội hoặc phôi khảm tiềm năng ở D6 vẫn mang lại kết quả lâm sàng khả quan. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho rằng chuyển phôi D5 có tỉ lệ mang thai, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn đáng kể so với chuyển phôi D6 ở chu kỳ chuyển phôi tươi và phôi trữ. Hiện tại vẫn chưa có nhiều tài liệu về hiệu quả lâm sàng của chuyển phôi D5 và D6, đây vẫn là chủ đề gây tranh cãi. 

Nhược điểm của nghiên cứu này là đánh giá kết quả ở các thời điểm cắt ngang, thiếu dữ liệu về diễn tiến từ giai đoạn làm tổ và thời kì mang thai. Kết quả nghiên cứu này có thể được sử sụng như một tài liệu để tư vấn cho bệnh nhân trong các chu kì điều trị IVF.

Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy việc chuyển đơn phôi nguyên bội D5 hoặc D6 không có ý nghĩa khác biệt về tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống.

Nguồn: Wu TF, Chen MJ, Lee MS, et al. Comparison of clinical outcome between day 5 and day 6 single blastocyst transfers in cycles undergoing preimplantation genetic testing for aneuploidy. Taiwan J Obstet Gynecol. 2023;62(3):429-433. doi:10.1016/j.tjog.2023.03.005

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK