Tin tức
on Monday 15-07-2024 9:45am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Nhật Ánh Dương - Bệnh viện Mỹ Đức
Giới thiệu
Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng (poor ovarian response - POR) là một trong những thách thức lớn trong điều trị IVF. Tỉ lệ này chiếm khoảng 9-24% số bệnh nhân thực hiện IVF, với các dấu hiệu như có ít nang noãn (< 3 nang), lớn tuổi (> 38 tuổi), đáp ứng kém với kích thích buồng trứng và nồng độ estradiol thấp (WHO, 2022). Những bệnh nhân POR có xu hướng có số lượng nang thứ cấp, số lượng noãn thu được, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống thấp. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ICSI thay vì IVF cổ điển có thể được sử dụng để tăng tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi phân chia và tỷ lệ mang thai ở nhóm bệnh nhân này. Do đó, cần tối ưu hóa phương pháp ICSI để tạo ra phôi có chất lượng tốt trong số lượng noãn hạn chế.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tuổi mẹ cao đi kèm với quá trình lão hoá thì những bất thường về cấu trúc và vị trí của thoi vô sắc (meiotic spindle – MS) ở noãn tăng lên rõ rệt. Cho đến nay, kính hiển vi ánh sáng phân cực (Polscope) đã được sử dụng để quan sát và đánh giá MS nhằm tránh làm tổn thương đến cấu trúc này và vật liệu di truyền trong khi ICSI. Ngoài ra, việc quan sát MS trong tế bào noãn còn có thể hỗ trợ dự đoán chất lượng noãn và tiềm năng phát triển của phôi.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá lợi ích của việc quan sát MS bằng kính hiển vi phân cực có giúp cải thiện kết quả điều trị IVF ở nhóm bệnh nhân POR hay không.
Phương pháp
Tham gia nghiên cứu gồm 115 bệnh nhân POR (đáp ứng với các tiêu chí của Bologna). Các trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu bao gồm có tình trạng bệnh lý từ trước, u nang lạc nội mạc tử cung, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, vô sinh nam nặng,… Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: nhóm đối chứng ICSI theo phương pháp truyền thống (non-MSV) và nhóm nghiên cứu (MSV).
Các noãn từ nhóm non-MSV được ICSI ở vị trí 90 độ so với thể cực thứ nhất (Polar body I - PBI) và cố định PBI ở vị trí 6 hoặc 12 giờ mà không quan sát vị trí của MS. Các noãn thuộc nhóm MSV được quan sát bằng kính hiển vi ánh sáng phân cực (Oosight, Hamilton) để đánh giá MS trước khi ICSI. Khi ICSI MS sẽ được cố định ở vị trí 6 hoặc 12 giờ và tiêm ở góc 90 độ. Ngoài ra, ở nhóm MSV còn được chia thành 2 nhóm nhỏ gồm noãn có MS thẳng hàng với PBI và noãn có MS lệch góc với PBI. Các đặc điểm ban đầu và kết quả IVF-ICSI (tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi phân chia, phôi tốt, tỉ lệ làm tổ, thai lâm sàng) được ghi nhận và so sánh giữa hai nhóm.
Kết quả
Nghiên cứu gồm 115 bệnh nhân POR với nhóm non-MSV (71 bệnh nhân) và nhóm MSV (44 bệnh nhân). Không có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi trung bình của người tham gia nghiên cứu giữa nhóm non-MSV và MSV (38,7±3,29 và 37,7±1,9 tuổi, p=0,076), số lượng nang noãn đầu chu kỳ (AFC) (4,7±1,03 và 4,68 ± 1,02; p=0,796), nồng độ AMH (0,82±0,21 và 0,85 ± 0,21, p=0,547). Nghiên cứu thu nhận được 378 noãn sau chọc hút và được phân ngẫu nhiên vào nhóm non-MSV (n=177) và nhóm MSV (n=201), sau khi tách, thu nhận được 162 và 145 noãn trưởng thành lần lượt trong nhóm non-MSV và nhóm MSV.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thụ tinh giữa hai nhóm (p>0,05). Trong đó tỷ lệ thụ tinh của nhóm MSV là 70,13 ± 38,68% và nhóm non-MSV là 68,09 ± 31,7%. Nhóm tác giả cho rằng tỷ lệ thụ tinh trong nghiên cứu này không có sự khác biệt đáng kể có thể là do ghi nhận được số lượng lớn noãn mang bất thường về thoi vô sắc ở nhóm MSV, gồm bất thường về vị trí và kích thước. Trong nhóm MSV, nghiên cứu ghi nhận được 46,2% thoi vô sắc thẳng hàng với PBI và 53,79% trường hợp lệch góc. Tỷ lệ thụ tinh trong nhóm thẳng hàng với PBI cao hơn nhóm lệch góc so với PBI và có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (p=0,029).
Tỷ lệ phôi phân chia cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (p=0,019), cụ thể là 93,94 ± 21,89 ở nhóm MSV và 78,91 ± 38,83 ở nhóm non-MSV. Phần lớn kết quả nghiên cứu là phôi loại 2 (59,05% và 63,95%), tiếp theo là phôi loại 3 (35,24% và 31,40%) so với phôi loại 1 (5,71% và 4,65%) lần lượt ở nhóm non-MSV và MSV. Mặc dù tỷ lệ phôi loại 1 ở nhóm nghiên cứu thấp hơn so với nhóm đối chứng, nhưng nhóm MSV đã cải thiện tỷ lệ phôi loại 2 và giảm tỷ lệ phôi loại 3. Kết quả này cho thấy chất lượng phôi đã được cải thiện bằng cách thực hiện quan sát MS khi ICSI.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng ghi nhận tỷ lệ làm tổ cao hơn ở nhóm MSV so với nhóm non-MSV, nhưng không có sự khác biệt đáng kể (p=0,056). Tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn ở nhóm MSV so với nhóm non-MSV và có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (p = 0,044).
Hạn chế chính của nghiên cứu này là cỡ mẫu nhỏ và là nghiên cứu hồi cứu, do đó việc thu nhận mẫu và dữ liệu không được kiểm soát tốt. Một số dữ liệu lâm sàng, ví dụ như tỷ lệ trẻ sinh sống, không được phân tích vì mất dấu bệnh nhân.
Kết luận
Từ những kết quả trên, ta có thể thấy việc sử dụng kính hiển vi phân cực để quan sát MS trong quá trình ICSI có thể giúp cải thiện kết quả điều trị IVF ở những bệnh nhân POR. Ngoài ra, việc quan sát và đánh giá MS còn có mối liên hệ tích cực với tỷ lệ phôi phân chia và chất lượng phôi ở nhóm bệnh nhân này.
Nguồn: Halim, B., Lubis, H. P., Adenin, I., Angellee, J., & Samoedra, R. S. (2024). Meiotic Spindle View improves the Outcome of IVF in Poor Responders: A Retrospective Analytical Study from an Indonesian IVF Center. JBRA Assisted Reproduction, 28(1), 39.
Giới thiệu
Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng (poor ovarian response - POR) là một trong những thách thức lớn trong điều trị IVF. Tỉ lệ này chiếm khoảng 9-24% số bệnh nhân thực hiện IVF, với các dấu hiệu như có ít nang noãn (< 3 nang), lớn tuổi (> 38 tuổi), đáp ứng kém với kích thích buồng trứng và nồng độ estradiol thấp (WHO, 2022). Những bệnh nhân POR có xu hướng có số lượng nang thứ cấp, số lượng noãn thu được, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống thấp. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ICSI thay vì IVF cổ điển có thể được sử dụng để tăng tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi phân chia và tỷ lệ mang thai ở nhóm bệnh nhân này. Do đó, cần tối ưu hóa phương pháp ICSI để tạo ra phôi có chất lượng tốt trong số lượng noãn hạn chế.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tuổi mẹ cao đi kèm với quá trình lão hoá thì những bất thường về cấu trúc và vị trí của thoi vô sắc (meiotic spindle – MS) ở noãn tăng lên rõ rệt. Cho đến nay, kính hiển vi ánh sáng phân cực (Polscope) đã được sử dụng để quan sát và đánh giá MS nhằm tránh làm tổn thương đến cấu trúc này và vật liệu di truyền trong khi ICSI. Ngoài ra, việc quan sát MS trong tế bào noãn còn có thể hỗ trợ dự đoán chất lượng noãn và tiềm năng phát triển của phôi.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá lợi ích của việc quan sát MS bằng kính hiển vi phân cực có giúp cải thiện kết quả điều trị IVF ở nhóm bệnh nhân POR hay không.
Phương pháp
Tham gia nghiên cứu gồm 115 bệnh nhân POR (đáp ứng với các tiêu chí của Bologna). Các trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu bao gồm có tình trạng bệnh lý từ trước, u nang lạc nội mạc tử cung, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, vô sinh nam nặng,… Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: nhóm đối chứng ICSI theo phương pháp truyền thống (non-MSV) và nhóm nghiên cứu (MSV).
Các noãn từ nhóm non-MSV được ICSI ở vị trí 90 độ so với thể cực thứ nhất (Polar body I - PBI) và cố định PBI ở vị trí 6 hoặc 12 giờ mà không quan sát vị trí của MS. Các noãn thuộc nhóm MSV được quan sát bằng kính hiển vi ánh sáng phân cực (Oosight, Hamilton) để đánh giá MS trước khi ICSI. Khi ICSI MS sẽ được cố định ở vị trí 6 hoặc 12 giờ và tiêm ở góc 90 độ. Ngoài ra, ở nhóm MSV còn được chia thành 2 nhóm nhỏ gồm noãn có MS thẳng hàng với PBI và noãn có MS lệch góc với PBI. Các đặc điểm ban đầu và kết quả IVF-ICSI (tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi phân chia, phôi tốt, tỉ lệ làm tổ, thai lâm sàng) được ghi nhận và so sánh giữa hai nhóm.
Kết quả
Nghiên cứu gồm 115 bệnh nhân POR với nhóm non-MSV (71 bệnh nhân) và nhóm MSV (44 bệnh nhân). Không có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi trung bình của người tham gia nghiên cứu giữa nhóm non-MSV và MSV (38,7±3,29 và 37,7±1,9 tuổi, p=0,076), số lượng nang noãn đầu chu kỳ (AFC) (4,7±1,03 và 4,68 ± 1,02; p=0,796), nồng độ AMH (0,82±0,21 và 0,85 ± 0,21, p=0,547). Nghiên cứu thu nhận được 378 noãn sau chọc hút và được phân ngẫu nhiên vào nhóm non-MSV (n=177) và nhóm MSV (n=201), sau khi tách, thu nhận được 162 và 145 noãn trưởng thành lần lượt trong nhóm non-MSV và nhóm MSV.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thụ tinh giữa hai nhóm (p>0,05). Trong đó tỷ lệ thụ tinh của nhóm MSV là 70,13 ± 38,68% và nhóm non-MSV là 68,09 ± 31,7%. Nhóm tác giả cho rằng tỷ lệ thụ tinh trong nghiên cứu này không có sự khác biệt đáng kể có thể là do ghi nhận được số lượng lớn noãn mang bất thường về thoi vô sắc ở nhóm MSV, gồm bất thường về vị trí và kích thước. Trong nhóm MSV, nghiên cứu ghi nhận được 46,2% thoi vô sắc thẳng hàng với PBI và 53,79% trường hợp lệch góc. Tỷ lệ thụ tinh trong nhóm thẳng hàng với PBI cao hơn nhóm lệch góc so với PBI và có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (p=0,029).
Tỷ lệ phôi phân chia cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (p=0,019), cụ thể là 93,94 ± 21,89 ở nhóm MSV và 78,91 ± 38,83 ở nhóm non-MSV. Phần lớn kết quả nghiên cứu là phôi loại 2 (59,05% và 63,95%), tiếp theo là phôi loại 3 (35,24% và 31,40%) so với phôi loại 1 (5,71% và 4,65%) lần lượt ở nhóm non-MSV và MSV. Mặc dù tỷ lệ phôi loại 1 ở nhóm nghiên cứu thấp hơn so với nhóm đối chứng, nhưng nhóm MSV đã cải thiện tỷ lệ phôi loại 2 và giảm tỷ lệ phôi loại 3. Kết quả này cho thấy chất lượng phôi đã được cải thiện bằng cách thực hiện quan sát MS khi ICSI.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng ghi nhận tỷ lệ làm tổ cao hơn ở nhóm MSV so với nhóm non-MSV, nhưng không có sự khác biệt đáng kể (p=0,056). Tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn ở nhóm MSV so với nhóm non-MSV và có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (p = 0,044).
Hạn chế chính của nghiên cứu này là cỡ mẫu nhỏ và là nghiên cứu hồi cứu, do đó việc thu nhận mẫu và dữ liệu không được kiểm soát tốt. Một số dữ liệu lâm sàng, ví dụ như tỷ lệ trẻ sinh sống, không được phân tích vì mất dấu bệnh nhân.
Kết luận
Từ những kết quả trên, ta có thể thấy việc sử dụng kính hiển vi phân cực để quan sát MS trong quá trình ICSI có thể giúp cải thiện kết quả điều trị IVF ở những bệnh nhân POR. Ngoài ra, việc quan sát và đánh giá MS còn có mối liên hệ tích cực với tỷ lệ phôi phân chia và chất lượng phôi ở nhóm bệnh nhân này.
Nguồn: Halim, B., Lubis, H. P., Adenin, I., Angellee, J., & Samoedra, R. S. (2024). Meiotic Spindle View improves the Outcome of IVF in Poor Responders: A Retrospective Analytical Study from an Indonesian IVF Center. JBRA Assisted Reproduction, 28(1), 39.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Theo dõi 10 năm về kết quả sinh sản ở phụ nữ cố gắng làm mẹ sau khi trữ noãn chủ động - Ngày đăng: 15-07-2024
Mối tương quan giữa việc sử dụng sản phẩm chăm sóc cá nhân và kết quả điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 10-07-2024
Dự đoán khả năng thụ tinh và chất lượng phôi dựa trên dấu ấn sinh học trong dịch nang - Ngày đăng: 10-07-2024
So sánh hiệu quả chuyển phôi tươi và phôi trữ ngày 06 (D6) - Ngày đăng: 10-07-2024
Nồng độ progesterone cao sau ngày tiêm hCG không ảnh hưởng đến kết cục thai lâm sàng sau chuyển phôi - Ngày đăng: 07-07-2024
So sánh tác động của hoạt hóa mô buồng trứng hóa học so với cơ học trong sự phát triển nang noãn ở người - Ngày đăng: 07-07-2024
Đột biến cặp alen trong protein liên kết RNA ADAD2 gây ra tình trạng suy giảm khả năng sinh tinh và vô tinh không do tắc nghẽn ở người - Ngày đăng: 07-07-2024
Vật tư bằng nhựa được sử dụng trong các quy trình thụ tinh trong ống nghiệm gây ra sự thay đổi lớn về biểu hiện gen nhau thai - Ngày đăng: 05-07-2024
Chất lượng hình thái phôi ngày 3 ảnh hưởng đến kết cục thai của phôi nang nguyên bội chất lượng thấp: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 05-07-2024
Mối tương quan giữa những bất thường về hình dạng và sự phân mảnh DNA tinh trùng người - Ngày đăng: 04-07-2024
Mang thai thành công bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn sau khi phôi nuôi cấy bị nhiễm khuẩn khi thực hiện IVF cổ điển: báo cáo trường hợp - Ngày đăng: 04-07-2024
Bảo tồn khả năng sinh sản: báo cáo trường hợp trẻ sơ sinh sau 13 năm trữ lạnh noãn - Ngày đăng: 04-07-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK