Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 19-07-2024 6:05am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Huỳnh Ngọc Uyên, IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận

Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI) được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1992 và được chỉ định trong các trường hợp vô sinh do yếu tố nam nặng. Nguyên nhân do vô sinh do yếu tố nam giới nặng chiếm 30%, nhưng hiện tại số chu kỳ ICSI chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với tỉ lệ này và tăng dần ở cả các cặp vợ chồng vô sinh không do yếu tố nam giới nặng. Việc tăng số chu kì ICSI ở những trường hợp vô sinh không phải do yếu tố nam nặng góp phần vào giả thuyết cho rằng ICSI có thể ngăn ngừa thất bại thụ tinh hoàn toàn, tăng số lượng phôi chuyển và tỉ lệ trẻ sinh sống.

Hai thử nghiệm ngẫu nhiên đa trung tâm đã chỉ ra rằng ICSI không giúp cải thiện tỉ lệ làm tổ của phôi và tỉ lệ trẻ sinh sống so với IVF cổ điển ở những cặp vợ chồng vô sinh có chỉ số tinh dịch đồ bình thường. Ngoài ra, ICSI là kỹ thuật xâm lấn và bỏ qua những rào cản của thụ tinh tự nhiên, do đó người ta đặt ra mối lo ngại về những rủi ro tiềm ẩn bao gồm nguy cơ dị tật bẩm sinh, chậm phát triển, rối loạn tâm thần ở trẻ sinh ra từ ICSI.
Một số nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng ICSI cho tỉ lệ thất bại thụ tinh hoàn toàn thấp hơn và số lượng noãn tối thiểu để tạo ra một phôi có thể sử dụng ít hơn so với IVF cổ điển. Những nghiên cứu khác cho rằng không có sự khác biệt về tỉ lệ thụ tinh, phôi tốt, thai lâm sàng, tỉ lệ trẻ sinh sống giữa ICSI và IVF cổ điển. Tuy nhiên những nghiên cứu này còn có mặt hạn chế về cỡ mẫu và thiết kế nghiên cứu không có tính ngẫu nhiên, không có báo cáo sâu hơn về các trường hợp trẻ sinh sống.
Vẫn còn tranh cãi về ưu điểm của ICSI so với IVF cổ điển ở những cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam giới ở mức độ nhẹ và vừa. Do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả và tính an toàn của ICSI so với IVF cổ điển ở những cặp bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam giới không nghiêm trọng.

Phương pháp nghiên cứu
Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng, đa trung tâm, nhãn mở được thực hiện tại 10 trung tâm y học sinh sản ở Trung Quốc từ ngày 4 tháng 4 năm 2018 đến ngày 15 tháng 11 năm 2021.  Nghiên cứu thực hiện trên 2329 cặp bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: ICSI (1154 cặp), IVF cổ điển (1175 cặp).
Kết cục chính là tỉ lệ trẻ sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên. Kết cục phụ là tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi ngày 3, tỉ lệ phôi ngày 3 loại tốt, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ đa thai, tỉ lệ thất bại thụ tinh hoàn toàn. Các kết cục phụ liên quan đến an toàn điều trị như: quá kích buồng trứng ở mức độ vừa và nặng, thai ngoài tử cung, sẩy thai, đái tháo đường thai kì, rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ, ra máu trước sinh, sinh non, cân nặng khi sinh, tuổi thai, dị tật bẩm sinh, tử vong chu sinh, tử vong sơ sinh.

Kết quả nghiên cứu
•  Tỷ lệ trẻ sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên: ở nhóm ICSI là 33,8% (390 cặp), ở nhóm IVF cổ điển là 36,6% (430 cặp) (RR 0.92 [95% KTC 0,83–1,03]; p = 0,16).
•  Tỉ lệ thất bại thụ tinh hoàn toàn: ở nhóm ICSI là 3,6% (42 cặp), ở nhóm IVF cổ điển là 4,8% (56 cặp) (RR 0,77 [0,52–1,14]; p = 0,19).
•  Nhóm ICSI có tỉ lệ phôi ngày 3, tỉ lệ làm tổ thấp hơn so với nhóm IVF cổ điển (tương ứng p = 0,0009 và RR 0,91 [0,83–1,00]; p = 0,045).
•  Tỷ lệ thụ tinh, số lượng phôi tốt ngày 3, chiến lược chuyển phôi (chuyển phôi tươi hay đông lạnh, phôi ngày 3 hay phôi nang, đơn phôi hay 2 phôi) không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
•  Tỷ lệ thai lâm sàng, thai ngoài tử cung, sẩy thai và tỷ lệ thai diễn tiến cũng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
•  Trong nhóm ICSI, có 7 trẻ mắc dị tật bẩm sinh (0,6%), tử vong chu sinh 4 trẻ (0,3%) và 2 trẻ tử vong sơ sinh (0,2%). Ở nhóm IVF cổ điển có 13 trẻ mắc dị tật bẩm sinh (1,1%); 6 trẻ tử vong chu sinh (0,5%); và 1 trẻ tử vong sơ sinh (0,1%). Ở nhóm IVF cổ điển có 1 trẻ tử vong ở 33 ngày sau sinh do teo ruột bẩm sinh.
•  Tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn trong vòng 12 tháng sau khi phân nhóm ngẫu nhiên ở nhóm ICSI thấp hơn so với IVF cổ điển  (514 [44,5%] so với 598 [50,9%]; RR 0,88 [95% KTC 0,81–0,96]; p = 0,0041).
•  Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2023 tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn ở nhóm ICSI vẫn thấp hơn so với nhóm IVF cổ điển (539 [46,7%] so với 618 [52,6%]; 0,89 [0,82–0,97]; p = 0,0066) và tỷ lệ thai diễn tiến chiếm 0,3% (4 cặp) ở nhóm ICSI, 0,3% (3 cặp) ở nhóm IVF cổ điển.

Kết luận
ICSI không cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống so với IVF cổ điển. Vì ICSI là một thủ thuật xâm lấn đi kèm với chi phí bổ sung và khả năng tăng nguy cơ đối với sức khỏe của trẻ. Do đó, IVF cổ điển được khuyến cáo là phương pháp điều trị thích hợp với những cặp vô sinh không do yếu tố nam giới nặng.
 
Tài liệu tham khảo: Wang, Y., Li, R., Yang, R., Zheng, D., Zeng, L., Lian, Y., ... & Qiao, J. (2024). Intracytoplasmic sperm injection versus conventional in-vitro fertilisation for couples with infertility with non-severe male factor: a multicentre, open-label, randomised controlled trial. The Lancet403(10430), 924-934.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK