Tin tức
on Friday 19-07-2024 6:17am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Thai kỳ thành công sau xét nghiệm tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) lần đầu được báo cáo vào năm 1990. PGT bao gồm nhiều loại như lệch bội (PGT for aneuploidy - PGT-A), tái sắp xếp cấu trúc (PGT for structural rearrangements - PGT-SR) và chẩn đoán các bệnh đơn gene (PGT for monogenic disorders - PGT-M). Bước quan trọng của xét nghiệm này là trích xuất DNA từ noãn (thể cực) hoặc phôi (giai đoạn phân chia hoặc phôi nang). So với phôi giai đoạn phân chia thì các tài liệu hiện nay khuyến cáo việc sinh thiết phôi giai đoạn phôi nang do độ chính xác cao hơn và giảm sai sót trong chẩn đoán. Mặc dù ứng dụng lâm sàng mới nổi, vẫn có những lo ngại về sự an toàn của kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh sau sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE). Các tế bào TE bị lấy được được định sẵn để hình thành nhau thai được cho là có thể gây bất lợi đến kết quả thai kỳ vì tình trạng bất thường của nhau thai. Do đó, dữ liệu theo dõi về trẻ em sinh ra sau thực hiện PGT rất quan trọng để đánh giá sự an toàn của kỹ thuật này. Một số nghiên cứu hồi cứu đã tìm thấy nguy cơ tăng huyết áp thai kỳ cao hơn và tiền sản giật sau khi chuyển phôi nang sinh thiết nhưng không gây ra rủi ro khi đề cập đến kết quả sơ sinh. Trong khi đó, vài báo cáo khác lại cho rằng việc mang thai sau PGT có liên quan đến việc tăng nguy cơ sinh non và cân nặng thấp khi sinh. Tuy nhiên, những dữ liệu trên được thu thập chủ yếu từ báo cáo của bệnh nhân mà không phải dựa trên báo cáo y khoa nên kết quả có thể gây tranh cãi và thiếu tính chính xác. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ so sánh kết quả đơn thai và trẻ sơ sinh sau chu kỳ chuyển phôi đông lạnh có và không có sinh thiết; đồng thời, đưa ra các khuyến cáo an toàn của kỹ thuật PGT.
Đây là nghiên cứu hồi cứu từ tháng 1/2019 đến tháng 3/2022, phân tích trên 720 chu kỳ, bao gồm 223 chu kỳ PGT (nhóm PGT) và 497 chu kỳ không PGT (nhóm đối chứng).
Kết quả cho thấy:
-Sự chuẩn bị nội mạc, độ dày nội mạc tử cung, tỉ lệ sẩy thai liên tiếp, tuổi phôi và phôi chất lượng tốt của các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer – FET) đều thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa 2 nhóm PGT và đối chứng.
-Nhóm thực hiện PGT có tỉ lệ sẩy thai liên tiếp cao hơn rất nhiều so với nhóm bệnh nhân chỉ thực hiện FET với tỉ lệ lần lượt là 31,2% và 4,2% (P<0,001).
-Nhóm PGT có tỉ lệ tăng huyết áp thai kỳ, bất thường dây rốn cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng lần lượt là 6,0% và 13,0% so với 2,6% và 7,8% (P<0,04).
-Tỉ lệ vỡ ối sớm thấp hơn (12,1% so với 19,7%; P=0,017).
-Tỉ lệ rối loạn huyết áp thai kỳ ở nhóm PGT tăng nhẹ so với nhóm đối chứng (13,5% so với 8,8%; P=0,074).
-Cả 2 nhóm đều có tỉ lệ tiền sản giật, tiểu đường thai kỳ, vỡ ối sớm trước 37 tuần thai, nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, nhau bong non, đa ối, thiểu ối, xuất huyết sau sinh và sinh mổ tương đương nhau.
Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh tỉ lệ vỡ ối sớm thấp hơn và tỉ lệ bất thường dây rốn cao hơn ở các trường hợp mang đơn thai sau PGT. Bên cạnh đó, việc thực hiện PGT dường như tăng tỉ lệ rối loạn huyết áp thai kỳ và giảm tỉ lệ vỡ ối sớm trước 37 tuần thai nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê với tỉ lệ lần lượt là aOR 1,64; 95% KTC 0,91-2,95; P=0,103 và aOR 0,50; 95% KTC 0,18-1,42; P=0,193. Đối với kết cục trẻ sơ sinh, một nghiên cứu đoàn hệ lớn với 58.812 chu kỳ FET và 59.120 chu kỳ PGT được phân tích từ hệ thống SART của Mỹ, PGT làm giảm đáng kể nguy cơ sinh non so với không PGT (1,5% so với 1,9%; P=0,0002). Báo cáo này cũng cho kết quả tương tự (0,5% so với 2,1%). Tuy nhiên, các thông số được phân tích trong bài khó so sánh với các bài khác vì đối tượng bệnh nhân và giai đoạn phôi sinh thiết khác nhau.
Nhau thai rất cần thiết cho sự phát triển của bào thai, sản xuất các hormone and điều tiết miễn dịch. Một nghiên cứu thực hiện sinh thiết phôi bào ở giai đoạn phân chia trên động vật được quan sát thấy có sự tăng stress oxy hóa và viêm nhiễm ở nhau thai, nghĩa là sự phát triển của nhau thai bị tổn thương sau quy trình sinh thiết phôi bào. Bên cạnh đó, quá trình phiên mã gene của phôi chuột cũng bị ảnh hưởng sau sinh thiết phôi nang. Do đó, việc lấy đi vài tế bào TE có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và chức năng của nhau thai. Mặt khác, những báo cáo trước đây cho rằng nội mạc tử cung mỏng có liên quan đến cân nặng của trẻ khi sinh giảm, tăng tỉ lệ sinh non và thai chậm phát triển trong tử cung. Đồng thời, việc chuyển đơn phôi nang chất lượng kém có liên quan đến nguy cơ sinh con nhẹ cân, sinh non và dị tật bẩm sinh cao hơn. Điều đó cho thấy việc phân loại hình thái phôi có thể tạo ra sự khác biệt đáng chú ý về sức khỏe của con cái.
Tóm lại, sinh thiết TE làm tăng nguy cơ tăng huyết áp thai kỳ và các bất thường dây rốn nhưng giảm tỉ lệ vỡ ối sớm trong chu kỳ FET. Quan trọng là sinh thiết phôi nang không gây biến chứng cho kết quả sơ sinh. Mặc dù nghiên cứu này có thể cung cấp bằng chứng xác đáng hơn cho bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân nhưng nghiên cứu khoa học cơ bản và trong tương lai với cỡ mẫu lớn nên được đảm bảo trước khi đưa ra kết luận chắc chắn.
Nguồn: Ji H, Zhang M.Q, Zhou Q, Zhang S, Dong L, Li X.L, Zhao C, Ding H và Ling X.F. Trophectoderm biopsy is associated with adverse obstetric outcomes rather than neonatal outcomes. 2023 Mar 04.
Thai kỳ thành công sau xét nghiệm tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) lần đầu được báo cáo vào năm 1990. PGT bao gồm nhiều loại như lệch bội (PGT for aneuploidy - PGT-A), tái sắp xếp cấu trúc (PGT for structural rearrangements - PGT-SR) và chẩn đoán các bệnh đơn gene (PGT for monogenic disorders - PGT-M). Bước quan trọng của xét nghiệm này là trích xuất DNA từ noãn (thể cực) hoặc phôi (giai đoạn phân chia hoặc phôi nang). So với phôi giai đoạn phân chia thì các tài liệu hiện nay khuyến cáo việc sinh thiết phôi giai đoạn phôi nang do độ chính xác cao hơn và giảm sai sót trong chẩn đoán. Mặc dù ứng dụng lâm sàng mới nổi, vẫn có những lo ngại về sự an toàn của kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh sau sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE). Các tế bào TE bị lấy được được định sẵn để hình thành nhau thai được cho là có thể gây bất lợi đến kết quả thai kỳ vì tình trạng bất thường của nhau thai. Do đó, dữ liệu theo dõi về trẻ em sinh ra sau thực hiện PGT rất quan trọng để đánh giá sự an toàn của kỹ thuật này. Một số nghiên cứu hồi cứu đã tìm thấy nguy cơ tăng huyết áp thai kỳ cao hơn và tiền sản giật sau khi chuyển phôi nang sinh thiết nhưng không gây ra rủi ro khi đề cập đến kết quả sơ sinh. Trong khi đó, vài báo cáo khác lại cho rằng việc mang thai sau PGT có liên quan đến việc tăng nguy cơ sinh non và cân nặng thấp khi sinh. Tuy nhiên, những dữ liệu trên được thu thập chủ yếu từ báo cáo của bệnh nhân mà không phải dựa trên báo cáo y khoa nên kết quả có thể gây tranh cãi và thiếu tính chính xác. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ so sánh kết quả đơn thai và trẻ sơ sinh sau chu kỳ chuyển phôi đông lạnh có và không có sinh thiết; đồng thời, đưa ra các khuyến cáo an toàn của kỹ thuật PGT.
Đây là nghiên cứu hồi cứu từ tháng 1/2019 đến tháng 3/2022, phân tích trên 720 chu kỳ, bao gồm 223 chu kỳ PGT (nhóm PGT) và 497 chu kỳ không PGT (nhóm đối chứng).
Kết quả cho thấy:
-Sự chuẩn bị nội mạc, độ dày nội mạc tử cung, tỉ lệ sẩy thai liên tiếp, tuổi phôi và phôi chất lượng tốt của các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer – FET) đều thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa 2 nhóm PGT và đối chứng.
-Nhóm thực hiện PGT có tỉ lệ sẩy thai liên tiếp cao hơn rất nhiều so với nhóm bệnh nhân chỉ thực hiện FET với tỉ lệ lần lượt là 31,2% và 4,2% (P<0,001).
-Nhóm PGT có tỉ lệ tăng huyết áp thai kỳ, bất thường dây rốn cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng lần lượt là 6,0% và 13,0% so với 2,6% và 7,8% (P<0,04).
-Tỉ lệ vỡ ối sớm thấp hơn (12,1% so với 19,7%; P=0,017).
-Tỉ lệ rối loạn huyết áp thai kỳ ở nhóm PGT tăng nhẹ so với nhóm đối chứng (13,5% so với 8,8%; P=0,074).
-Cả 2 nhóm đều có tỉ lệ tiền sản giật, tiểu đường thai kỳ, vỡ ối sớm trước 37 tuần thai, nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, nhau bong non, đa ối, thiểu ối, xuất huyết sau sinh và sinh mổ tương đương nhau.
Đây là nghiên cứu đầu tiên chứng minh tỉ lệ vỡ ối sớm thấp hơn và tỉ lệ bất thường dây rốn cao hơn ở các trường hợp mang đơn thai sau PGT. Bên cạnh đó, việc thực hiện PGT dường như tăng tỉ lệ rối loạn huyết áp thai kỳ và giảm tỉ lệ vỡ ối sớm trước 37 tuần thai nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê với tỉ lệ lần lượt là aOR 1,64; 95% KTC 0,91-2,95; P=0,103 và aOR 0,50; 95% KTC 0,18-1,42; P=0,193. Đối với kết cục trẻ sơ sinh, một nghiên cứu đoàn hệ lớn với 58.812 chu kỳ FET và 59.120 chu kỳ PGT được phân tích từ hệ thống SART của Mỹ, PGT làm giảm đáng kể nguy cơ sinh non so với không PGT (1,5% so với 1,9%; P=0,0002). Báo cáo này cũng cho kết quả tương tự (0,5% so với 2,1%). Tuy nhiên, các thông số được phân tích trong bài khó so sánh với các bài khác vì đối tượng bệnh nhân và giai đoạn phôi sinh thiết khác nhau.
Nhau thai rất cần thiết cho sự phát triển của bào thai, sản xuất các hormone and điều tiết miễn dịch. Một nghiên cứu thực hiện sinh thiết phôi bào ở giai đoạn phân chia trên động vật được quan sát thấy có sự tăng stress oxy hóa và viêm nhiễm ở nhau thai, nghĩa là sự phát triển của nhau thai bị tổn thương sau quy trình sinh thiết phôi bào. Bên cạnh đó, quá trình phiên mã gene của phôi chuột cũng bị ảnh hưởng sau sinh thiết phôi nang. Do đó, việc lấy đi vài tế bào TE có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và chức năng của nhau thai. Mặt khác, những báo cáo trước đây cho rằng nội mạc tử cung mỏng có liên quan đến cân nặng của trẻ khi sinh giảm, tăng tỉ lệ sinh non và thai chậm phát triển trong tử cung. Đồng thời, việc chuyển đơn phôi nang chất lượng kém có liên quan đến nguy cơ sinh con nhẹ cân, sinh non và dị tật bẩm sinh cao hơn. Điều đó cho thấy việc phân loại hình thái phôi có thể tạo ra sự khác biệt đáng chú ý về sức khỏe của con cái.
Tóm lại, sinh thiết TE làm tăng nguy cơ tăng huyết áp thai kỳ và các bất thường dây rốn nhưng giảm tỉ lệ vỡ ối sớm trong chu kỳ FET. Quan trọng là sinh thiết phôi nang không gây biến chứng cho kết quả sơ sinh. Mặc dù nghiên cứu này có thể cung cấp bằng chứng xác đáng hơn cho bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân nhưng nghiên cứu khoa học cơ bản và trong tương lai với cỡ mẫu lớn nên được đảm bảo trước khi đưa ra kết luận chắc chắn.
Nguồn: Ji H, Zhang M.Q, Zhou Q, Zhang S, Dong L, Li X.L, Zhao C, Ding H và Ling X.F. Trophectoderm biopsy is associated with adverse obstetric outcomes rather than neonatal outcomes. 2023 Mar 04.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ sàng lọc thể lệch bội nhằm tối ưu hóa kết quả sinh sản ở nhóm bệnh nhân thất bại nhiều lần: Tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 19-07-2024
So sánh kỹ thuật Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn với Thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển ở những cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam giới không nghiêm trọng: nghiên cứu đa trung tâm, nhãn mở, đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 19-07-2024
Ảnh hưởng của chu kỳ trữ - rã, thu tế bào sinh thiết và số lần bắn laser đến sự xuất hiện thể khảm trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội nhiễm sắc thể - Ngày đăng: 15-07-2024
Sử dụng kính hiển vi phân cực quan sát thoi vô sắc trong quá trình ICSI giúp cải thiện kết quả IVF ở những bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng trứng: một nghiên cứu hồi cứu từ một trung tâm IVF Indonesia - Ngày đăng: 15-07-2024
Theo dõi 10 năm về kết quả sinh sản ở phụ nữ cố gắng làm mẹ sau khi trữ noãn chủ động - Ngày đăng: 15-07-2024
Mối tương quan giữa việc sử dụng sản phẩm chăm sóc cá nhân và kết quả điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 10-07-2024
Dự đoán khả năng thụ tinh và chất lượng phôi dựa trên dấu ấn sinh học trong dịch nang - Ngày đăng: 10-07-2024
So sánh hiệu quả chuyển phôi tươi và phôi trữ ngày 06 (D6) - Ngày đăng: 10-07-2024
Nồng độ progesterone cao sau ngày tiêm hCG không ảnh hưởng đến kết cục thai lâm sàng sau chuyển phôi - Ngày đăng: 07-07-2024
So sánh tác động của hoạt hóa mô buồng trứng hóa học so với cơ học trong sự phát triển nang noãn ở người - Ngày đăng: 07-07-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK