Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 16-05-2024 3:20am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thị Thanh Loan - IVFMD Tân Bình

Giới thiệu
Theo định nghĩa của labo thụ tinh trong ống nghiệm, thụ tinh thành công được xác định khi có sự xuất hiện của hai tiền nhân (two pronuclei – 2PN) và hai thể cực trong khoảng 16 - 18 giờ sau thụ tinh. Trong lâm sàng, các hợp tử 0PN và 1PN được xem là thất bại thụ tinh hoặc bất thường thụ tinh. Dựa trên khuyến cáo của ESHRE, những phôi phát triển từ hợp tử này không nên lựa chọn để chuyển do nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bệnh nhân không có phôi phát triển từ hợp tử 2PN, chuyển phôi có nguồn gốc từ hợp tử 0PN và 1PN có bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội bình thường sẽ được theo dõi và cân nhắc sử dụng.

Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Testing - PGT) là một phương pháp hiệu quả để sàng lọc phôi lưỡng bội. Tùy thuộc vào điều kiện của các trung tâm hỗ trợ sinh sản mà phương pháp này có được thực hiện hay không. Bên cạnh đó, PGT là phương pháp xâm lấn có thể mang rủi ro ảnh hưởng đến khả năng phát triển của phôi. Do đó, với trường hợp bệnh nhân có những hợp tử 0PN hay 1PN, chuyên viên phôi học sẽ lựa chọn nuôi cấy phôi dài ngày để đánh giá tiềm năng phát triển của phôi. Có thể nói, nuôi cấy phôi dài ngày là một phương pháp không xâm lấn, đơn giản và tiết kiệm chi phí trong thực hành lâm sàng. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng việc chuyển phôi có nguồn gốc từ hợp tử 0PN và 1PN có thể cải thiện cơ hội mang thai cho bệnh nhân. Chất lượng phôi và tiềm năng của các hợp tử này có thể dự đoán thông qua đánh giá hình thái phôi ở giai đoạn phân chia. Hiện nay, chỉ có một vài nghiên cứu hồi cứu báo cáo về rủi ro liên quan đến phôi phát triển từ hợp tử 0PN và 1PN. Do đó, cần có thêm nhiều nghiên cứu về ý nghĩa lâm sàng của các phôi này để đảm bảo tính an toàn cho việc chuyển phôi. Nghiên cứu này đã được thực hiện nhằm đánh giá tiềm năng phát triển của hợp tử 0PN, 1PN và 2PN trong chu kỳ IVF và so sánh kết quả lâm sàng.
 
Đối tượng và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu ở bệnh nhân có độ tuổi từ 20 - 45 tuổi, với chu kỳ thực hiện IVF từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2021. Thời điểm đánh giá thụ tinh từ 16 - 18 giờ sau thụ tinh. Tỷ lệ hình thành phôi nang và kết quả lâm sàng sau khi chuyển phôi được đánh giá ở ba nhóm hợp tử: 0PN, 1PN và 2PN.
 
Kết quả
Trong nghiên cứu này, tổng cộng 18.734 noãn từ 1.628 chu kỳ IVF của 1.311 bệnh nhân đã được xem xét. Với 10.642 phôi được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang, gồm 705 phôi 0PN, 412 phôi 1PN và 9.525 phôi 2PN.
  1. Kết quả phôi học
Dữ liệu về phôi ngày 3 được đánh giá, cho thấy:
  • Tỷ lệ phôi ngày 3 ở hợp tử 0PN đạt 29,6%; 1PN đạt 17,0%; 2PN đạt 32,1%.
  • Tỷ lệ phôi tốt ngày 3 ở hợp tử 0PN đạt 15,3%; 1PN đạt 7,0%; 2PN đạt 17,5%.
  • Không có sự khác biệt về tỷ lệ phôi ngày 3 và tỷ lệ phôi tốt ngày 3 giữa các hợp tử ở nhóm phụ nữ trên và dưới 35 tuổi.
Dữ liệu về phôi ngày 5 được đánh giá, cho thấy:
  • Tỷ lệ phôi ngày 5 ở hợp tử 0PN đạt  21,8%; 1PN đạt 9,7%; 2PN đạt 20,8%.
  • Tỷ lệ phôi tốt ngày 5 ở hợp tử 0PN đạt 12,9%; 1PN đạt 5,1%; 2PN đạt 13,6%.
Dữ liệu về phôi ngày 6 được đánh giá, cho thấy:
  • Tỷ lệ phôi ngày 6 ở hợp tử 0PN đạt  7,8%; 1PN đạt 7,3%; 2PN đạt 11,3%.
  • Tỷ lệ phôi tốt ngày 6 ở hợp tử 0PN đạt 2,4%; 1PN đạt 1,9%; 2PN đạt 3,9%.
Nhìn chung, tỷ lệ phôi ngày 3 và ngày 5 ở nhóm 0PN tương tự nhóm 2PN và cao hơn đáng kể so với nhóm 1PN. Tuy nhiên, tỷ lệ phôi ngày 6 ở hai nhóm 0PN và 1PN lại thấp hơn so với nhóm 2PN. Điều này cho thấy hiệu quả của nuôi cấy phôi trong sàng lọc phôi có tiềm năng phát triển kém.
  1. Kết quả lâm sàng
Thống kê số ca chuyển phôi đơn ghi nhận được 35 ca chuyển phôi 0PN, 18 ca chuyển phôi 1PN và 153 ca chuyển phôi 2PN. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ mang thai lâm sàng, tỷ lệ mang thai ngoài tử cung, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ trẻ sinh sống giữa các ca chuyển phôi trữ 0PN, 1PN và 2PN đều không có sự khác biệt, lần lượt là:
  • Tỷ lệ mang thai lâm sàng: 0PN đạt 40,0%; 1PN đạt 44,4%; 2PN đạt 49,7%.
  • Tỷ lệ mang thai ngoài tử cung: 0PN, 1PN, 2PN đều 0%.
  • Tỷ lệ làm tổ: 0PN đạt 37,1%; 1PN đạt 44,4%; 2PN đạt 48,4%.
  • Tỷ lệ trẻ sinh sống: 0PN đạt 28,6%; 1PN đạt 38,9%; 2PN đạt 39,2%.
 
Kết luận
Thông qua phân tích dữ liệu từ nghiên cứu cho thấy hợp tử 0PN và 2PN có tiềm năng phát triển tương đương, trong khi phôi 1PN có tiềm năng phát triển thấp hơn. Mặc dù vậy, kết quả chuyển phôi trữ ở các hợp tử 0PN, 1PN và 2PN tương tự nhau, nhưng vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn để chứng minh tính an toàn.
 
Tài liệu tham khảo: Zhu, M., Dong, Q., Zhu, Y., Le, Y., Wang, T., Zhou, Y., & Yang, S. (2024). Developmental potential of non-and mono-pronuclear zygotes and associated clinical outcomes in IVF cycles. Frontiers in Endocrinology, 15, 1361734.
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK