Tin tức
on Thursday 16-05-2024 3:18am
Danh mục: Tin quốc tế
Kỹ sư CNSH. Nông Thị Hoài
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Lạc nội mạc tử cung là một tình trạng phụ khoa mãn tính ảnh hưởng đến 1/10 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Cứ 10 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản thì có 1 người bị ảnh hưởng bởi lạc nội mạc tử cung. Nhiều phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung gặp khó khăn trong việc thụ thai và thường được khuyên dùng IVF như một lựa chọn điều trị. Có báo cáo rằng tỷ lệ thành công IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung thấp hơn so với những phụ nữ không bị lạc nội mạc tử cung. Những lý do chính khiến tỷ lệ thành công của IVF thấp hơn ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung là chất lượng noãn kém và khả năng bám phôi của niêm mạc tử cung giảm. Trong khi một số nghiên cứu cho rằng chất lượng noãn kém là nguyên nhân chính khiến tỷ lệ thành công của IVF thấp hơn ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung, thì những nghiên cứu khác lại cho rằng vai trò của việc giảm khả năng bám phôi của niêm mạc tử cung. Nghiên cứu này điều tra tác động của chất lượng noãn đến kết quả IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung bằng cách sử dụng noãn hiến tặng. Nghiên cứu so sánh những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ nhận noãn với những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua IVF tự thân.
Dữ liệu được ngoại suy từ những năm 1996 đến 2016 cho hai đoàn hệ bao gồm các chu kỳ IVF nhận noãn, trong đó người nhận được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung và đoàn hệ thứ hai của tất cả các chu kỳ IVF tự thân với lạc nội mạc tử cung là nguyên nhân duy nhất gây vô sinh. Nghiên cứu bao gồm 758 chu kỳ IVF nhận noãn và 12.856 chu kỳ IVF tự thân. Hai đoàn hệ được đánh giá với nhau để so sánh tỉ lệ sống (Live Birth Rate – LBR) trên mỗi chu kỳ. Ngoài ra, để kiểm soát, một nhóm nhận noãn không bị lạc nội mạc tử cung được so sánh với nhóm nhận noãn của người hiến tặng bị lạc nội mạc tử cung. Điều kiện loại của nghiên cứu là chu kỳ có nhiều hơn một nguyên nhân gây vô sinh, các chu kỳ không phải do lạc nội mạc tử cung, chu kỳ IVF tự thân với phụ nữ trên 34 tuổi, chu kỳ mang thai hộ, chu kỳ thiếu thông tin về nguồn noãn và thiếu thông tin về chuyển phôi tươi hoặc đông lạnh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về LBR ở những phụ nữ trải qua chu kỳ nhận noãn so với chu kỳ IVF tự thân (28,0% so với 29,8). Chu kỳ chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sống ở cả 2 nhóm (31,6% so với 31,0%; 19,6% so với 24,0%). LBR ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ nhận noãn thấp hơn so với những phụ nữ trải qua chu kỳ nhận noãn của người hiến tặng mà không bị lạc nội mạc tử cung (28,0% so với 30,7%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu hiện tại không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào về LBR ở những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ nhận noãn so với chu kỳ tự thân. Hơn nữa, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy về LBR ở nhóm phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh ở cả 2 nhóm. Kết hợp lại với nhau, những phát hiện này cho thấy chất lượng noãn có tác động hạn chế hoặc không ảnh hưởng đến kết quả IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung.
Tuy nhiên, nghiên cứu còn những hạn chế bao gồm việc thiếu dữ liệu về phương pháp chẩn đoán lạc nội mạc tử cung và mức độ nghiêm trọng của nó cũng như sự hiện diện của lạc nội mạc trong cơ tử cung (adenomyosis) cùng tồn tại. Hơn nữa, không có thông tin nào về việc liệu phụ nữ cho noãn có bị lạc nội mạc tử cung hay không. Ngoài ra còn thiếu thông tin về số lượng noãn nhận trong chu kì của người xin noãn, đây là một hạn chế quan trọng vì nó được coi là yếu tố tiên lượng.
Tóm lại, những phát hiện của nghiên cứu hiện tại đã tăng thêm sức thuyết phục cho thấy LBR giảm ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung có thể chủ yếu là do khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung bị suy giảm. Mặc dù chúng ta không thể loại trừ hoàn toàn tác động tiêu cực của chất lượng tế bào noãn lên kết quả IVF. Hơn nữa, nghiên cứu này không thể tìm hiểu tác động của số lượng noãn đến kết quả điều trị IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung. Kết quả nghiên cứu hiện tại cần được xác nhận thêm bằng các nghiên cứu dữ liệu lớn tương tự có thông tin về số lượng tế bào noãn và LBR tích lũy.
Nguồn: Mohan S Kamath, Venkatesh Subramanian, Belavendra Antonisamy, and Sesh Kamal Sunkara, 2022.“Endometriosis and oocyte quality: an analysis of 13 614 donor oocyte recipient and autologous IVF cycles”.
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Lạc nội mạc tử cung là một tình trạng phụ khoa mãn tính ảnh hưởng đến 1/10 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Cứ 10 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản thì có 1 người bị ảnh hưởng bởi lạc nội mạc tử cung. Nhiều phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung gặp khó khăn trong việc thụ thai và thường được khuyên dùng IVF như một lựa chọn điều trị. Có báo cáo rằng tỷ lệ thành công IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung thấp hơn so với những phụ nữ không bị lạc nội mạc tử cung. Những lý do chính khiến tỷ lệ thành công của IVF thấp hơn ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung là chất lượng noãn kém và khả năng bám phôi của niêm mạc tử cung giảm. Trong khi một số nghiên cứu cho rằng chất lượng noãn kém là nguyên nhân chính khiến tỷ lệ thành công của IVF thấp hơn ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung, thì những nghiên cứu khác lại cho rằng vai trò của việc giảm khả năng bám phôi của niêm mạc tử cung. Nghiên cứu này điều tra tác động của chất lượng noãn đến kết quả IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung bằng cách sử dụng noãn hiến tặng. Nghiên cứu so sánh những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ nhận noãn với những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua IVF tự thân.
Dữ liệu được ngoại suy từ những năm 1996 đến 2016 cho hai đoàn hệ bao gồm các chu kỳ IVF nhận noãn, trong đó người nhận được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung và đoàn hệ thứ hai của tất cả các chu kỳ IVF tự thân với lạc nội mạc tử cung là nguyên nhân duy nhất gây vô sinh. Nghiên cứu bao gồm 758 chu kỳ IVF nhận noãn và 12.856 chu kỳ IVF tự thân. Hai đoàn hệ được đánh giá với nhau để so sánh tỉ lệ sống (Live Birth Rate – LBR) trên mỗi chu kỳ. Ngoài ra, để kiểm soát, một nhóm nhận noãn không bị lạc nội mạc tử cung được so sánh với nhóm nhận noãn của người hiến tặng bị lạc nội mạc tử cung. Điều kiện loại của nghiên cứu là chu kỳ có nhiều hơn một nguyên nhân gây vô sinh, các chu kỳ không phải do lạc nội mạc tử cung, chu kỳ IVF tự thân với phụ nữ trên 34 tuổi, chu kỳ mang thai hộ, chu kỳ thiếu thông tin về nguồn noãn và thiếu thông tin về chuyển phôi tươi hoặc đông lạnh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về LBR ở những phụ nữ trải qua chu kỳ nhận noãn so với chu kỳ IVF tự thân (28,0% so với 29,8). Chu kỳ chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sống ở cả 2 nhóm (31,6% so với 31,0%; 19,6% so với 24,0%). LBR ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ nhận noãn thấp hơn so với những phụ nữ trải qua chu kỳ nhận noãn của người hiến tặng mà không bị lạc nội mạc tử cung (28,0% so với 30,7%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu hiện tại không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào về LBR ở những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ nhận noãn so với chu kỳ tự thân. Hơn nữa, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy về LBR ở nhóm phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung trải qua chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh ở cả 2 nhóm. Kết hợp lại với nhau, những phát hiện này cho thấy chất lượng noãn có tác động hạn chế hoặc không ảnh hưởng đến kết quả IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung.
Tuy nhiên, nghiên cứu còn những hạn chế bao gồm việc thiếu dữ liệu về phương pháp chẩn đoán lạc nội mạc tử cung và mức độ nghiêm trọng của nó cũng như sự hiện diện của lạc nội mạc trong cơ tử cung (adenomyosis) cùng tồn tại. Hơn nữa, không có thông tin nào về việc liệu phụ nữ cho noãn có bị lạc nội mạc tử cung hay không. Ngoài ra còn thiếu thông tin về số lượng noãn nhận trong chu kì của người xin noãn, đây là một hạn chế quan trọng vì nó được coi là yếu tố tiên lượng.
Tóm lại, những phát hiện của nghiên cứu hiện tại đã tăng thêm sức thuyết phục cho thấy LBR giảm ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung có thể chủ yếu là do khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung bị suy giảm. Mặc dù chúng ta không thể loại trừ hoàn toàn tác động tiêu cực của chất lượng tế bào noãn lên kết quả IVF. Hơn nữa, nghiên cứu này không thể tìm hiểu tác động của số lượng noãn đến kết quả điều trị IVF ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung. Kết quả nghiên cứu hiện tại cần được xác nhận thêm bằng các nghiên cứu dữ liệu lớn tương tự có thông tin về số lượng tế bào noãn và LBR tích lũy.
Nguồn: Mohan S Kamath, Venkatesh Subramanian, Belavendra Antonisamy, and Sesh Kamal Sunkara, 2022.“Endometriosis and oocyte quality: an analysis of 13 614 donor oocyte recipient and autologous IVF cycles”.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nhiễm SARS-CoV-2 ảnh hưởng đến kết quả thai sau khi chuyển phôi từ IVF/ICSI: Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - Ngày đăng: 16-05-2024
Thừa cân và béo phì ảnh hưởng đến hiệu quả của progesterone đặt âm đạo so với tiêm bắp trong việc hỗ trợ giai đoạn hoàng thể trong chuyển phôi nang đông lạnh - Ngày đăng: 15-05-2024
Ảnh hưởng của các yếu tố điều hòa phiên mã lên sự tạo giao tử người - Ngày đăng: 15-05-2024
Ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung đến chức năng buồng trứng - Ngày đăng: 15-05-2024
Chỉ số AMH tối ưu ở người cho noãn: một phân tích dựa trên cơ sở dữ liệu quốc gia - Ngày đăng: 10-05-2024
Đánh giá kết quả lâm sàng sau khi chuyển phôi chất lượng kém và các thông số tiên lượng - Ngày đăng: 10-05-2024
Hiệu quả của các chất chống oxi hóa lên chất lượng tinh trùng và tỉ lệ thai ở đối tượng vô sinh nam chưa rõ nguyên nhân – Một phân tích tổng hợp hệ thống trên các RCT - Ngày đăng: 10-05-2024
Phác đồ kép (dual trigger) hỗ trợ giai đoạn trưởng thành noãn cuối cùng ở bệnh nhân có tỷ lệ thu nhận noãn non cao: một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 10-05-2024
Các yếu tố dự đoán hội chứng nang trống ở bệnh nhân vô sinh đang tiến hành điều trị công nghệ hỗ trợ sinh sản: Một nghiên cứu hồi cứu và báo cáo tổng quan lý thuyết - Ngày đăng: 10-05-2024
Nên sử dụng phương pháp thủ thuật MESA thay vì TESE trong trường hợp vô tinh do tắc nghẽn - Ngày đăng: 10-05-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK