Tin tức
on Thursday 28-12-2023 7:56am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Đan Thanh
IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức
Vào năm 2012, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ đã gõ bỏ nhãn thực nghiệm về trữ lạnh noãn sau khi có bằng chứng đáng kể chứng minh rằng kết quả thai ở chu kỳ IVF sử dụng noãn trữ lạnh tương tự như chu kỳ sử dụng noãn tươi. Việc sử dụng phương pháp trữ lạnh noãn theo kế hoạch (planned oocyte cryopreservation – POC) vì những lý do phi y tế, thường được gọi là trữ lạnh noãn “chủ động” hoặc “xã hội”, đang gia tăng theo cấp số nhân. Hiện tượng này kéo theo một số câu hỏi vẫn chưa được trả lời: Ai nên trữ lạnh noãn theo kế hoạch? Khi nào là thời điểm thích hợp để bắt đầu? Những cân nhắc về đạo đức và những rủi ro tiềm ẩn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần là gì?
Đây là bài tổng quan các vấn đề như rủi ro có thể gặp phải và và các vấn đề đạo đức liên quan trữ lạnh noãn theo kế hoạch, đồng thời trình bày một số vấn đề còn chưa giải quyết được.
Tư vấn và rủi ro có thể gặp
POC trong thời gian gần đây được xem là một xu hướng nhằm bảo tồn khả năng sinh sản “có chọn lọc”. Do tính chất mới của lựa chọn điều trị này, các chuyên gia y tế phải cung cấp thông tin tư vấn chuyên biệt và phức tạp cho bệnh nhân để giải quyết những câu hỏi phát sinh trong và sau quá trình điều trị. Để bắt đầu, các chuyên gia phải có sự hiểu biết sâu sắc về động cơ của bệnh nhân trong việc lựa chọn POC. Động cơ chính thống ban đầu cho trữ lạnh noãn khi người phụ nữ mắc các vấn đề bệnh lý khiến dự trữ noãn giảm, hoặc điều trị hoá trị xạ trị ảnh hưởng chất lượng noãn. Tuy nhiên, với cơ hội việc làm ngày càng tăng, cấu trúc gia đình phức tạp, cũng như những tiến bộ về y tế và công nghệ, các động cơ trữ noãn ngày càng trở nên phức tạp hơn.
Quá trình POC tồn tại 1 số rủi ro cần được thông báo rõ ràng với bệnh nhân. Đầu tiên, một số rủi ro có thể xảy ra liên quan đến quá trình kích thích trứng, bao gồm hội chứng quá kích buồng trứng, xoắn buồng trứng, tác dụng phụ của thuốc và gây cảm giác đầy bụng khó chịu cho bệnh nhân. Thứ hai, bản thân quy trình này có những rủi ro khác trong quá trình thủ thuật: chảy máu, nhiễm trùng và tổn thương buồng trứng cũng như các cơ quan xung quanh. Tất cả những rủi ro này sẽ tăng lên nếu bệnh nhân cần thực hiện chọc hút nhiều lần để tích luỹ noãn. Thứ ba, những nguy cơ thất bại của quá trình: hủy bỏ chu kỳ điều trị do noãn chưa trưởng thành, chất lượng noãn kém hoặc không sống sót tại thời điểm rã đông, không có phôi nang để chuyển và không có thai hoặc sảy thai. Một bệnh nhân muốn thực hiện trữ lạnh noãn phải luôn được tư vấn rằng bệnh viện không đảm bảo chắc chắn có trẻ sinh sống. Mặt khác, một số nguy cơ khác có thể xảy ra, dù hiếm gặp như thiết bị bảo quản lạnh có trục trặc hoặc các vấn đề thiên tai như động đất có thể ảnh hưởng chất lượng noãn cũng cần thông báo với bệnh nhân từ đầu.
Các vấn đề đạo đức
Các nghiên cứu cho thấy chỉ một phần nhỏ noãn trữ lạnh (15%–40%) được sử dụng để điều trị IVF. Nghĩa là số phụ nữ quay lại sử dụng noãn trữ lạnh còn thấp, có thể nhóm phụ nữ này đã có thai tự nhiên sau này và không còn nhu cầu sử dụng noãn trữ lạnh hay làm IVF. Các ước tính cũng cho thấy có hơn 1 triệu phôi và hơn 3 triệu noãn hiện đang được lưu trữ sẽ không bao giờ được sử dụng. Các phương tiện truyền thông thường đăng tải những câu chuyện của những bệnh nhân đang gặp khó khăn về việc phải làm gì với những noãn trữ không được sử dụng. Các trung tâm IVF đều có chung tình huống khó khăn về không gian và chi phí lưu trữ đối với những trường hợp không quay lại dùng noãn trữ lạnh. Mặc dù một số phụ nữ cảm thấy thoải mái với việc vứt bỏ hoặc hiến tặng noãn, nhưng một số phụ nữ khác thường phải đối mặt với cảm giác hối tiếc có thể có cảm xúc khó khăn khi phải lựa chọn loại bỏ hoặc hiến tặng noãn đã trữ lạnh của họ.
Lượng kiến thức cung cấp
Một yếu tố quan trọng khác cần cân nhắc là kiến thức của bệnh nhân về sức khoẻ sinh sản và sự suy giảm khả năng sinh sản khi tuổi mẹ ngày càng tăng. Sự gia tăng nội dung truyền thông trên truyền hình, tin tức và mạng xã hội xung quanh việc trữ lạnh noãn trong những năm gần đây đã tạo ra nhận thức cao hơn về sức khỏe sinh sản . Mặc dù một số phương tiện truyền thông quốc gia gần đây đã nhấn mạnh rằng hoạt động tiếp thị này có thể gây khó chịu cho những người đang đấu tranh với khả năng sinh con, nhưng nhiều người thường thấy thông tin trên các trang web về sinh sản và Internet rất hữu ích trong việc đưa ra quyết định chăm sóc sức khỏe. Do đó, điều cực kỳ quan trọng là bằng chứng được đưa ra phải chính xác, khách quan và đầy đủ. Một phân tích đánh giá các nội dung truyền thông gần đây cho thấy thông tin được chia sẻ mang tính thuyết phục người phụ nữ nên trữ lạnh noãn hơn là mang tính thông tin và tập trung vào lợi ích hơn là rủi ro. Điều này có thể gây hại cho những bệnh nhân không hiểu rõ về các rủi ro tài chính, y tế và cảm xúc liên quan. Do đó, quảng cáo POC của các phòng khám sinh sản và các tập đoàn truyền thông cần phải nhấn mạnh dữ liệu rõ ràng và toàn diện về quy trình điều trị, chi phí, rủi ro và tỷ lệ thành công của trữ lạnh, cho phép bệnh nhân đưa ra quyết định sáng suốt với sự tư vấn độc lập về sức khỏe sinh sản của họ.
Những góc nhìn khác về trữ noãn xã hội
Ngoài những cân nhắc về tư vấn và đạo đức xung quanh POC, điều quan trọng là phải xem xét sự khác biệt trong khả năng tiếp cận phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản này. Đây là một kỹ thuật đắt tiền, có giá lên tới 15.000–20.000 USD mỗi chu kỳ tại Mỹ, thường không được bảo hiểm chi trả. Những chi phí này chỉ dành cho việc thu thập noãn ban đầu và không bao gồm các chi phí liên quan đến việc rã đông noãn để chuẩn bị cho IVF. Hơn nữa, bệnh nhân có thể cần phải hoàn thành quy trình rã đông và IVF nhiều lần để đạt được tỉ lệ có thai mong muốn. Những chi phí này cũng không bao gồm những chi phí liên quan đến các xét nghiệm tinh trùng cần thiết cho người chồng khi tạo phôi. Vì vậy, điều kiện tài chính có thể khiến nhiều người không thể thực hiện POC, tiềm ẩn nguy cơ tạo ra rào cản bất công đối với sức khỏe sinh sản.
Vào năm 2014, Facebook và Apple thông báo rằng họ sẽ trang trải chi phí bảo tồn khả năng sinh sản, cho phép phụ nữ theo đuổi sự nghiệp của mình mà không phải lo lắng ngày càng tăng về khả năng sinh sản sắp giảm liên quan đến tuổi tác. Mặc dù một số nhân viên đánh giá cao chính sách này và xem đây như một cơ hội để đảm bảo khả năng sinh sản, nhưng những người khác lại cho rằng chính sách này sẽ gây khó khăn cho những phụ nữ muốn sinh con ở độ tuổi sớm hơn. Cần xem xét lý do tại sao nơi làm việc vẫn là một môi trường khó khăn đối với những phụ nữ muốn sinh con và tại sao sự nghiệp thăng hoa và việc làm mẹ sớm không thể song hành cùng nhau. Có lẽ POC là một cánh cửa giúp một người mong muốn theo đuổi sự nghiệp khi còn trẻ và để dành việc sinh con khi sự nghiệp của họ đã ổn định hơn. Điều này có thể có ý nghĩa thực tế trong một số lĩnh vực đòi hỏi phải làm việc nhiều giờ mới đạt được thành công. Nhưng những vấn đề này có phải là điều cần thiết tuyệt đối không? Chúng ta có thể điều chỉnh lại giờ đào tạo và giờ làm việc giống như cách mà đại dịch COVID-19 đã điều chỉnh lại nhiều nơi làm việc không? Có phải xã hội đã duy trì quan niệm rằng một số nghề nghiệp không phù hợp với việc có con và trở thành cha mẹ? Không có gì đảm bảo rằng noãn được lưu trữ sẽ có nghĩa là việc nuôi dạy con cái dễ dàng hơn với một sự nghiệp đã ổn định hơn là với một sự nghiệp đang phát triển. Liệu người sử dụng lao động có ích lợi khi tạo ra một lựa chọn hay chỉ ích kỷ khi tìm cách đảm bảo phụ nữ trẻ sẽ làm việc nhiều giờ hơn? Đây vẫn là những câu hỏi chưa thể trả lời.
Kết luận
Trữ lạnh noãn theo kế hoạch có khả năng mang lại hy vọng cho những phụ nữ muốn có em bé trong tương lai nhưng không thể hoặc không phù hợp có thai ở thời điểm hiện tại. Việc thực hiện POC ngày càng gia tăng và tạo ra nhu cầu tư vấn độc lập và nhất quán thường xuyên về các rủi ro và cân nhắc về mặt đạo đức. Mặc dù các chi phí tài chính liên quan có thể được chi trả khi bệnh nhân cân nhắc việc sử dụng phương pháp trữ lạnh noãn, nhưng chúng có thể không được chi trả tại thời điểm rã đông trong tương lai nếu bệnh nhân thay đổi nơi lao động hoặc chuyển ra khỏi quốc gia khác. Bệnh nhân cũng phải được tư vấn để xem xét những gì họ có thể chấp nhận trong trường hợp noãn có thể không sử dụng được và tương lại có thể phải loại bỏ hoặc hiến tặng chúng. Cuối cùng, POC và công nghệ liên quan có thể giúp đỡ cho những người trẻ tuổi đạt được mục tiêu phát triển sự nghiệp trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và vẫn đảm bảo cơ hội xây dựng gia đình của họ, cần có sự tư vấn chu đáo, đầy đủ thông tin và phù hợp với từng cá nhân và phải được thực hiện với sự quan tâm tối đa.
Tài liệu tham khảo
Reich, J. A., Caplan, A., Quinn, G. P., & Blakemore, J. K. Counseling, risks, and ethical considerations of planned oocyte cryopreservation. Fertility and Sterility, 2022; 117(3), 481-484.
IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức
Vào năm 2012, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ đã gõ bỏ nhãn thực nghiệm về trữ lạnh noãn sau khi có bằng chứng đáng kể chứng minh rằng kết quả thai ở chu kỳ IVF sử dụng noãn trữ lạnh tương tự như chu kỳ sử dụng noãn tươi. Việc sử dụng phương pháp trữ lạnh noãn theo kế hoạch (planned oocyte cryopreservation – POC) vì những lý do phi y tế, thường được gọi là trữ lạnh noãn “chủ động” hoặc “xã hội”, đang gia tăng theo cấp số nhân. Hiện tượng này kéo theo một số câu hỏi vẫn chưa được trả lời: Ai nên trữ lạnh noãn theo kế hoạch? Khi nào là thời điểm thích hợp để bắt đầu? Những cân nhắc về đạo đức và những rủi ro tiềm ẩn đối với sức khỏe thể chất và tinh thần là gì?
Đây là bài tổng quan các vấn đề như rủi ro có thể gặp phải và và các vấn đề đạo đức liên quan trữ lạnh noãn theo kế hoạch, đồng thời trình bày một số vấn đề còn chưa giải quyết được.
Tư vấn và rủi ro có thể gặp
POC trong thời gian gần đây được xem là một xu hướng nhằm bảo tồn khả năng sinh sản “có chọn lọc”. Do tính chất mới của lựa chọn điều trị này, các chuyên gia y tế phải cung cấp thông tin tư vấn chuyên biệt và phức tạp cho bệnh nhân để giải quyết những câu hỏi phát sinh trong và sau quá trình điều trị. Để bắt đầu, các chuyên gia phải có sự hiểu biết sâu sắc về động cơ của bệnh nhân trong việc lựa chọn POC. Động cơ chính thống ban đầu cho trữ lạnh noãn khi người phụ nữ mắc các vấn đề bệnh lý khiến dự trữ noãn giảm, hoặc điều trị hoá trị xạ trị ảnh hưởng chất lượng noãn. Tuy nhiên, với cơ hội việc làm ngày càng tăng, cấu trúc gia đình phức tạp, cũng như những tiến bộ về y tế và công nghệ, các động cơ trữ noãn ngày càng trở nên phức tạp hơn.
Quá trình POC tồn tại 1 số rủi ro cần được thông báo rõ ràng với bệnh nhân. Đầu tiên, một số rủi ro có thể xảy ra liên quan đến quá trình kích thích trứng, bao gồm hội chứng quá kích buồng trứng, xoắn buồng trứng, tác dụng phụ của thuốc và gây cảm giác đầy bụng khó chịu cho bệnh nhân. Thứ hai, bản thân quy trình này có những rủi ro khác trong quá trình thủ thuật: chảy máu, nhiễm trùng và tổn thương buồng trứng cũng như các cơ quan xung quanh. Tất cả những rủi ro này sẽ tăng lên nếu bệnh nhân cần thực hiện chọc hút nhiều lần để tích luỹ noãn. Thứ ba, những nguy cơ thất bại của quá trình: hủy bỏ chu kỳ điều trị do noãn chưa trưởng thành, chất lượng noãn kém hoặc không sống sót tại thời điểm rã đông, không có phôi nang để chuyển và không có thai hoặc sảy thai. Một bệnh nhân muốn thực hiện trữ lạnh noãn phải luôn được tư vấn rằng bệnh viện không đảm bảo chắc chắn có trẻ sinh sống. Mặt khác, một số nguy cơ khác có thể xảy ra, dù hiếm gặp như thiết bị bảo quản lạnh có trục trặc hoặc các vấn đề thiên tai như động đất có thể ảnh hưởng chất lượng noãn cũng cần thông báo với bệnh nhân từ đầu.
Các vấn đề đạo đức
Các nghiên cứu cho thấy chỉ một phần nhỏ noãn trữ lạnh (15%–40%) được sử dụng để điều trị IVF. Nghĩa là số phụ nữ quay lại sử dụng noãn trữ lạnh còn thấp, có thể nhóm phụ nữ này đã có thai tự nhiên sau này và không còn nhu cầu sử dụng noãn trữ lạnh hay làm IVF. Các ước tính cũng cho thấy có hơn 1 triệu phôi và hơn 3 triệu noãn hiện đang được lưu trữ sẽ không bao giờ được sử dụng. Các phương tiện truyền thông thường đăng tải những câu chuyện của những bệnh nhân đang gặp khó khăn về việc phải làm gì với những noãn trữ không được sử dụng. Các trung tâm IVF đều có chung tình huống khó khăn về không gian và chi phí lưu trữ đối với những trường hợp không quay lại dùng noãn trữ lạnh. Mặc dù một số phụ nữ cảm thấy thoải mái với việc vứt bỏ hoặc hiến tặng noãn, nhưng một số phụ nữ khác thường phải đối mặt với cảm giác hối tiếc có thể có cảm xúc khó khăn khi phải lựa chọn loại bỏ hoặc hiến tặng noãn đã trữ lạnh của họ.
Lượng kiến thức cung cấp
Một yếu tố quan trọng khác cần cân nhắc là kiến thức của bệnh nhân về sức khoẻ sinh sản và sự suy giảm khả năng sinh sản khi tuổi mẹ ngày càng tăng. Sự gia tăng nội dung truyền thông trên truyền hình, tin tức và mạng xã hội xung quanh việc trữ lạnh noãn trong những năm gần đây đã tạo ra nhận thức cao hơn về sức khỏe sinh sản . Mặc dù một số phương tiện truyền thông quốc gia gần đây đã nhấn mạnh rằng hoạt động tiếp thị này có thể gây khó chịu cho những người đang đấu tranh với khả năng sinh con, nhưng nhiều người thường thấy thông tin trên các trang web về sinh sản và Internet rất hữu ích trong việc đưa ra quyết định chăm sóc sức khỏe. Do đó, điều cực kỳ quan trọng là bằng chứng được đưa ra phải chính xác, khách quan và đầy đủ. Một phân tích đánh giá các nội dung truyền thông gần đây cho thấy thông tin được chia sẻ mang tính thuyết phục người phụ nữ nên trữ lạnh noãn hơn là mang tính thông tin và tập trung vào lợi ích hơn là rủi ro. Điều này có thể gây hại cho những bệnh nhân không hiểu rõ về các rủi ro tài chính, y tế và cảm xúc liên quan. Do đó, quảng cáo POC của các phòng khám sinh sản và các tập đoàn truyền thông cần phải nhấn mạnh dữ liệu rõ ràng và toàn diện về quy trình điều trị, chi phí, rủi ro và tỷ lệ thành công của trữ lạnh, cho phép bệnh nhân đưa ra quyết định sáng suốt với sự tư vấn độc lập về sức khỏe sinh sản của họ.
Những góc nhìn khác về trữ noãn xã hội
Ngoài những cân nhắc về tư vấn và đạo đức xung quanh POC, điều quan trọng là phải xem xét sự khác biệt trong khả năng tiếp cận phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản này. Đây là một kỹ thuật đắt tiền, có giá lên tới 15.000–20.000 USD mỗi chu kỳ tại Mỹ, thường không được bảo hiểm chi trả. Những chi phí này chỉ dành cho việc thu thập noãn ban đầu và không bao gồm các chi phí liên quan đến việc rã đông noãn để chuẩn bị cho IVF. Hơn nữa, bệnh nhân có thể cần phải hoàn thành quy trình rã đông và IVF nhiều lần để đạt được tỉ lệ có thai mong muốn. Những chi phí này cũng không bao gồm những chi phí liên quan đến các xét nghiệm tinh trùng cần thiết cho người chồng khi tạo phôi. Vì vậy, điều kiện tài chính có thể khiến nhiều người không thể thực hiện POC, tiềm ẩn nguy cơ tạo ra rào cản bất công đối với sức khỏe sinh sản.
Vào năm 2014, Facebook và Apple thông báo rằng họ sẽ trang trải chi phí bảo tồn khả năng sinh sản, cho phép phụ nữ theo đuổi sự nghiệp của mình mà không phải lo lắng ngày càng tăng về khả năng sinh sản sắp giảm liên quan đến tuổi tác. Mặc dù một số nhân viên đánh giá cao chính sách này và xem đây như một cơ hội để đảm bảo khả năng sinh sản, nhưng những người khác lại cho rằng chính sách này sẽ gây khó khăn cho những phụ nữ muốn sinh con ở độ tuổi sớm hơn. Cần xem xét lý do tại sao nơi làm việc vẫn là một môi trường khó khăn đối với những phụ nữ muốn sinh con và tại sao sự nghiệp thăng hoa và việc làm mẹ sớm không thể song hành cùng nhau. Có lẽ POC là một cánh cửa giúp một người mong muốn theo đuổi sự nghiệp khi còn trẻ và để dành việc sinh con khi sự nghiệp của họ đã ổn định hơn. Điều này có thể có ý nghĩa thực tế trong một số lĩnh vực đòi hỏi phải làm việc nhiều giờ mới đạt được thành công. Nhưng những vấn đề này có phải là điều cần thiết tuyệt đối không? Chúng ta có thể điều chỉnh lại giờ đào tạo và giờ làm việc giống như cách mà đại dịch COVID-19 đã điều chỉnh lại nhiều nơi làm việc không? Có phải xã hội đã duy trì quan niệm rằng một số nghề nghiệp không phù hợp với việc có con và trở thành cha mẹ? Không có gì đảm bảo rằng noãn được lưu trữ sẽ có nghĩa là việc nuôi dạy con cái dễ dàng hơn với một sự nghiệp đã ổn định hơn là với một sự nghiệp đang phát triển. Liệu người sử dụng lao động có ích lợi khi tạo ra một lựa chọn hay chỉ ích kỷ khi tìm cách đảm bảo phụ nữ trẻ sẽ làm việc nhiều giờ hơn? Đây vẫn là những câu hỏi chưa thể trả lời.
Kết luận
Trữ lạnh noãn theo kế hoạch có khả năng mang lại hy vọng cho những phụ nữ muốn có em bé trong tương lai nhưng không thể hoặc không phù hợp có thai ở thời điểm hiện tại. Việc thực hiện POC ngày càng gia tăng và tạo ra nhu cầu tư vấn độc lập và nhất quán thường xuyên về các rủi ro và cân nhắc về mặt đạo đức. Mặc dù các chi phí tài chính liên quan có thể được chi trả khi bệnh nhân cân nhắc việc sử dụng phương pháp trữ lạnh noãn, nhưng chúng có thể không được chi trả tại thời điểm rã đông trong tương lai nếu bệnh nhân thay đổi nơi lao động hoặc chuyển ra khỏi quốc gia khác. Bệnh nhân cũng phải được tư vấn để xem xét những gì họ có thể chấp nhận trong trường hợp noãn có thể không sử dụng được và tương lại có thể phải loại bỏ hoặc hiến tặng chúng. Cuối cùng, POC và công nghệ liên quan có thể giúp đỡ cho những người trẻ tuổi đạt được mục tiêu phát triển sự nghiệp trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và vẫn đảm bảo cơ hội xây dựng gia đình của họ, cần có sự tư vấn chu đáo, đầy đủ thông tin và phù hợp với từng cá nhân và phải được thực hiện với sự quan tâm tối đa.
Tài liệu tham khảo
Reich, J. A., Caplan, A., Quinn, G. P., & Blakemore, J. K. Counseling, risks, and ethical considerations of planned oocyte cryopreservation. Fertility and Sterility, 2022; 117(3), 481-484.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Carboxylated Poly-L-lysine có khả năng làm giảm sự phân mảnh DNA tinh trùng người sau khi đông lạnh - rã đông và chức năng của nó được tăng cường nhờ Resveratrol (RES) liều thấp - Ngày đăng: 25-12-2023
Bệnh nhân có một phôi nang chất lượng tốt có nên PGT-A hay không? Dựa trên kết quả của 2064 chu kỳ - Ngày đăng: 25-12-2023
Kết quả labo và kết cục lâm sàng của việc trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ ở bệnh nhân trải qua Micro-TESE - Ngày đăng: 25-12-2023
Dự trữ buồng trứng giảm trong bệnh lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 25-12-2023
Kết quả sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ của trẻ sau sinh thiết phôi để xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 25-12-2023
Hiệu quả và lợi ích của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội bắt đầu từ chu kỳ thu nhận noãn: một nghiên cứu thực tế - Ngày đăng: 21-12-2023
Xuất tinh lần thứ hai trong khoảng thời gian ngắn giúp cải thiện chất lượng tinh trùng, hình thành phôi nang ở nam giới Oligoasthenozoospermia sau ICSI: Một nghiên cứu time-lapse chia noãn - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự Nanopore phát hiện phôi mang chuyển đoạn cân bằng trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự gene đơn phân tử thế hệ thứ ba cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội và mất cân bằng phân đoạn nhiễm sắc thể - Ngày đăng: 18-12-2023
Hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Ca2+ inophores sau ICSI ở các trường hợp tiền căn thụ tinh kém - Ngày đăng: 14-12-2023
Một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm có đối chứng về hiệu quả của hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 14-12-2023
Mối liên hệ giữa các điều kiện lâm sàng khác nhau và phôi khảm - Ngày đăng: 11-12-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK