Tin tức
on Monday 25-12-2023 8:46am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Hiện nay, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT) của phôi đang được phát triển và phổ biến trong in vitro. PGT nhằm mục đích phát hiện các rối loạn di truyền và lệch bội trong phôi để tránh việc chuyển những phôi bất thường về nhiễm sắc thể. Xét nghiệm này đòi hỏi phải sinh thiết để lấy mẫu tế bào phục vụ phân tích. Ba chiến lược xâm lấn khác nhau đã được đề xuất trong nhiều năm qua để thu thập các tế bào cần phân tích bao gồm sinh thiết thể cực, sinh thiết phôi phân chia và sinh thiết phôi nang. Bên cạnh đó, các dấu hiệu tổn thương tế bào đã được mô tả liên quan đến quy trình này. Do đó, ảnh hưởng của sinh thiết đối với kết quả sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ lâu dài của trẻ là một vấn đề đáng lo ngại và đang được quan tâm. Do đó, nghiên cứu tổng quan này thực hiện tóm tắt các bằng chứng sẵn có nhằm xác định liệu việc mang thai sau khi chuyển phôi sinh thiết có liên quan đến nguy cơ cao hơn về các kết quả bất lợi về sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ lâu dài của trẻ hay không.
Nghiên cứu đã tìm kiếm cơ sở dữ liệu với các từ khóa liên quan đến kỹ thuật sinh thiết phôi và kết quả sản khoa, sơ sinh và sau sinh. Các nghiên cứu trong đó phôi được sinh thiết ở các giai đoạn khác nhau (tức là cả ở giai đoạn phôi phân chia và giai đoạn phôi nang) đã bị loại trừ. Nghiên cứu bao gồm dữ liệu về chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ. Tổng cộng có 5322 tài liệu được thu nhận từ tìm kiếm. Sau khi loại bỏ các bản trùng lặp, 1987 tài liệu đã được sàng lọc và 46 tài liệu được đánh giá đủ điều kiện, dẫn đến cuối cùng có 31 bài báo được đưa vào phân tích sau khi loại trừ một số bài báo vì những lý do cụ thể của từng bài.
Kết quả cho thấy thiếu bằng chứng chắc chắn để giải quyết đầy đủ các vấn đề về ảnh hưởng lâu dài tiềm ẩn trên sản khoa, sơ sinh hoặc sức khoẻ lâu dài của trẻ sau sinh thiết phôi. Đối với sinh thiết thể cực, tài liệu quá ít để đưa ra bất kỳ kết luận nào. Một số dữ liệu, mặc dù còn hạn chế và gây tranh cãi, cho thấy mối liên quan giữa sinh thiết phôi ở giai đoạn phôi phân chia với nguy cơ trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh thấp và thai nhỏ so với tuổi thai (small for gestational age neonates - SGA) tăng lên so với trẻ có nguồn gốc từ phôi không được sinh thiết. Sự gia tăng tỷ lệ sinh non và dị tật bẩm sinh trong các trường hợp sinh thiết tế bào lá nuôi phôi (trophectoderm - TE) đã được đề xuất. Đối với cả hai phương pháp sinh thiết (giai đoạn phôi phân chia và giai đoạn phôi nang), người ta nhận thấy nguy cơ gia tăng rối loạn tăng huyết áp khi mang thai. Tuy nhiên, những phát hiện này có thể được giải thích bởi các yếu tố gây nhiễu như các quá trình thao tác phôi khác hoặc bởi các đặc điểm nội tại của bệnh nhân hoặc quần thể.
Bên cạnh đó, một số hạn chế của các nghiên cứu đã được đánh giá và cần được xem xét. Đầu tiên, phương pháp của kỹ thuật sinh thiết xâm lấn có thể không được chuẩn hóa trong các nghiên cứu. Vì vậy, nguồn gốc của tính không đồng nhất chưa được biết đến là sự phụ thuộc của người vận hành các quy trình này. Thứ hai, việc điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu có khả năng ảnh hưởng đến kết quả (chẳng hạn như tuổi mẹ, BMI, bệnh đi kèm, số lần sinh, sự hiện diện của vô sinh và nguyên nhân của nó, phác đồ khác nhau và sử dụng bảo quản lạnh) không được thực hiện ở mức độ lớn. Cuối cùng, phần lớn các nghiên cứu không đủ vững chắc về quy mô mẫu để phát hiện những khác biệt tinh tế trong tỷ lệ kết quả được phân tích. Do đó, một thách thức mới trong việc phát triển PGT là phương pháp tiếp cận không xâm lấn (noninvasive preimplantation genetic testing - niPGT) bao gồm phân tích DNA tự do trong tế bào (Cell-free DNA - cf-DNA), thu được từ môi trường nuôi cấy đã qua sử dụng để hạn chế tất cả các ảnh hưởng có thể có liên quan đến sinh thiết phôi. Những lợi ích tiềm tàng của chiến lược này rất đa dạng bao gồm nguy cơ hư hỏng phôi hoàn toàn được ngăn chặn, phương pháp này đại diện cho một khả năng đầy hứa hẹn đối với các quốc gia mà pháp luật không cho phép sinh thiết phôi và phương pháp này đòi hỏi trình độ chuyên môn thấp hơn của các chuyên viên phôi học. Điều hợp lý là phương pháp không xâm lấn như vậy, với nguy cơ tổn thương phôi thấp hơn, có thể hạn chế các biến chứng sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ lâu dài tiềm ẩn ở trẻ sinh ra sau khi sinh thiết phôi để PGT.
Hiện nay, PGT vẫn là một trong những vấn đề gây tranh cãi gay gắt nhất trong y học sinh sản. Nghiên cứu này trước tiên đã mô tả các yếu tố gây nhiễu làm hạn chế độ tin cậy của các nghiên cứu đề cập đến chủ đề này, chẳng hạn như các quy trình thao tác phôi khác hoặc đặc điểm của bệnh nhân. Thứ hai, nghiên cứu đã đề xuất mối liên quan có thể có của sinh thiết phôi ở cả giai đoạn phôi phân chia và giai đoạn phôi nang, với nguy cơ mắc rối loạn tăng huyết áp khi mang thai tăng lên và kết quả chu sinh bất lợi. Tác dụng phụ lâu dài có thể hiếm gặp nhưng vẫn có thể xảy ra, ít nhất là đối với sinh thiết phôi bào. Thứ ba, nghiên cứu này xác định những lỗ hổng kiến thức, bao gồm việc thiếu dữ liệu về kết quả lâu dài sau sinh thiết TE hoặc thiếu dữ liệu đủ tin cậy để tổng hợp theo các quy trình di truyền khác nhau. Nhìn chung, những rủi ro ngắn hạn và dài hạn của PGT đối với sức khỏe trước hoặc sau khi sinh vẫn chưa chắc chắn nhưng không thể loại trừ. Nghiên cứu không có đủ bằng chứng để đánh giá kết quả sản khoa, trẻ sơ sinh và sức khoẻ lâu dài của trẻ sau sinh thiết phôi, do đó chiến lược PGT xâm lấn cần được phát triển với cách tiếp cận thận trọng. Bên cạnh đó, một cách tiếp cận không xâm lấn, dựa trên phân tích DNA tự do trong tế bào cần được hướng tới để khắc phục những hạn chế tiềm ẩn của sinh thiết phôi.
Tài liệu tham khảo: Alessandra Alteri, Greta Chiara Cermisoni, Mirko Pozzoni và cộng sự. Obstetric, neonatal, and child health outcomes following embryo biopsy for preimplantation genetic testing. Human Reproduction Update. 2023.
Hiện nay, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT) của phôi đang được phát triển và phổ biến trong in vitro. PGT nhằm mục đích phát hiện các rối loạn di truyền và lệch bội trong phôi để tránh việc chuyển những phôi bất thường về nhiễm sắc thể. Xét nghiệm này đòi hỏi phải sinh thiết để lấy mẫu tế bào phục vụ phân tích. Ba chiến lược xâm lấn khác nhau đã được đề xuất trong nhiều năm qua để thu thập các tế bào cần phân tích bao gồm sinh thiết thể cực, sinh thiết phôi phân chia và sinh thiết phôi nang. Bên cạnh đó, các dấu hiệu tổn thương tế bào đã được mô tả liên quan đến quy trình này. Do đó, ảnh hưởng của sinh thiết đối với kết quả sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ lâu dài của trẻ là một vấn đề đáng lo ngại và đang được quan tâm. Do đó, nghiên cứu tổng quan này thực hiện tóm tắt các bằng chứng sẵn có nhằm xác định liệu việc mang thai sau khi chuyển phôi sinh thiết có liên quan đến nguy cơ cao hơn về các kết quả bất lợi về sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ lâu dài của trẻ hay không.
Nghiên cứu đã tìm kiếm cơ sở dữ liệu với các từ khóa liên quan đến kỹ thuật sinh thiết phôi và kết quả sản khoa, sơ sinh và sau sinh. Các nghiên cứu trong đó phôi được sinh thiết ở các giai đoạn khác nhau (tức là cả ở giai đoạn phôi phân chia và giai đoạn phôi nang) đã bị loại trừ. Nghiên cứu bao gồm dữ liệu về chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ. Tổng cộng có 5322 tài liệu được thu nhận từ tìm kiếm. Sau khi loại bỏ các bản trùng lặp, 1987 tài liệu đã được sàng lọc và 46 tài liệu được đánh giá đủ điều kiện, dẫn đến cuối cùng có 31 bài báo được đưa vào phân tích sau khi loại trừ một số bài báo vì những lý do cụ thể của từng bài.
Kết quả cho thấy thiếu bằng chứng chắc chắn để giải quyết đầy đủ các vấn đề về ảnh hưởng lâu dài tiềm ẩn trên sản khoa, sơ sinh hoặc sức khoẻ lâu dài của trẻ sau sinh thiết phôi. Đối với sinh thiết thể cực, tài liệu quá ít để đưa ra bất kỳ kết luận nào. Một số dữ liệu, mặc dù còn hạn chế và gây tranh cãi, cho thấy mối liên quan giữa sinh thiết phôi ở giai đoạn phôi phân chia với nguy cơ trẻ sơ sinh có cân nặng khi sinh thấp và thai nhỏ so với tuổi thai (small for gestational age neonates - SGA) tăng lên so với trẻ có nguồn gốc từ phôi không được sinh thiết. Sự gia tăng tỷ lệ sinh non và dị tật bẩm sinh trong các trường hợp sinh thiết tế bào lá nuôi phôi (trophectoderm - TE) đã được đề xuất. Đối với cả hai phương pháp sinh thiết (giai đoạn phôi phân chia và giai đoạn phôi nang), người ta nhận thấy nguy cơ gia tăng rối loạn tăng huyết áp khi mang thai. Tuy nhiên, những phát hiện này có thể được giải thích bởi các yếu tố gây nhiễu như các quá trình thao tác phôi khác hoặc bởi các đặc điểm nội tại của bệnh nhân hoặc quần thể.
Bên cạnh đó, một số hạn chế của các nghiên cứu đã được đánh giá và cần được xem xét. Đầu tiên, phương pháp của kỹ thuật sinh thiết xâm lấn có thể không được chuẩn hóa trong các nghiên cứu. Vì vậy, nguồn gốc của tính không đồng nhất chưa được biết đến là sự phụ thuộc của người vận hành các quy trình này. Thứ hai, việc điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu có khả năng ảnh hưởng đến kết quả (chẳng hạn như tuổi mẹ, BMI, bệnh đi kèm, số lần sinh, sự hiện diện của vô sinh và nguyên nhân của nó, phác đồ khác nhau và sử dụng bảo quản lạnh) không được thực hiện ở mức độ lớn. Cuối cùng, phần lớn các nghiên cứu không đủ vững chắc về quy mô mẫu để phát hiện những khác biệt tinh tế trong tỷ lệ kết quả được phân tích. Do đó, một thách thức mới trong việc phát triển PGT là phương pháp tiếp cận không xâm lấn (noninvasive preimplantation genetic testing - niPGT) bao gồm phân tích DNA tự do trong tế bào (Cell-free DNA - cf-DNA), thu được từ môi trường nuôi cấy đã qua sử dụng để hạn chế tất cả các ảnh hưởng có thể có liên quan đến sinh thiết phôi. Những lợi ích tiềm tàng của chiến lược này rất đa dạng bao gồm nguy cơ hư hỏng phôi hoàn toàn được ngăn chặn, phương pháp này đại diện cho một khả năng đầy hứa hẹn đối với các quốc gia mà pháp luật không cho phép sinh thiết phôi và phương pháp này đòi hỏi trình độ chuyên môn thấp hơn của các chuyên viên phôi học. Điều hợp lý là phương pháp không xâm lấn như vậy, với nguy cơ tổn thương phôi thấp hơn, có thể hạn chế các biến chứng sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ lâu dài tiềm ẩn ở trẻ sinh ra sau khi sinh thiết phôi để PGT.
Hiện nay, PGT vẫn là một trong những vấn đề gây tranh cãi gay gắt nhất trong y học sinh sản. Nghiên cứu này trước tiên đã mô tả các yếu tố gây nhiễu làm hạn chế độ tin cậy của các nghiên cứu đề cập đến chủ đề này, chẳng hạn như các quy trình thao tác phôi khác hoặc đặc điểm của bệnh nhân. Thứ hai, nghiên cứu đã đề xuất mối liên quan có thể có của sinh thiết phôi ở cả giai đoạn phôi phân chia và giai đoạn phôi nang, với nguy cơ mắc rối loạn tăng huyết áp khi mang thai tăng lên và kết quả chu sinh bất lợi. Tác dụng phụ lâu dài có thể hiếm gặp nhưng vẫn có thể xảy ra, ít nhất là đối với sinh thiết phôi bào. Thứ ba, nghiên cứu này xác định những lỗ hổng kiến thức, bao gồm việc thiếu dữ liệu về kết quả lâu dài sau sinh thiết TE hoặc thiếu dữ liệu đủ tin cậy để tổng hợp theo các quy trình di truyền khác nhau. Nhìn chung, những rủi ro ngắn hạn và dài hạn của PGT đối với sức khỏe trước hoặc sau khi sinh vẫn chưa chắc chắn nhưng không thể loại trừ. Nghiên cứu không có đủ bằng chứng để đánh giá kết quả sản khoa, trẻ sơ sinh và sức khoẻ lâu dài của trẻ sau sinh thiết phôi, do đó chiến lược PGT xâm lấn cần được phát triển với cách tiếp cận thận trọng. Bên cạnh đó, một cách tiếp cận không xâm lấn, dựa trên phân tích DNA tự do trong tế bào cần được hướng tới để khắc phục những hạn chế tiềm ẩn của sinh thiết phôi.
Tài liệu tham khảo: Alessandra Alteri, Greta Chiara Cermisoni, Mirko Pozzoni và cộng sự. Obstetric, neonatal, and child health outcomes following embryo biopsy for preimplantation genetic testing. Human Reproduction Update. 2023.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hiệu quả và lợi ích của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội bắt đầu từ chu kỳ thu nhận noãn: một nghiên cứu thực tế - Ngày đăng: 21-12-2023
Xuất tinh lần thứ hai trong khoảng thời gian ngắn giúp cải thiện chất lượng tinh trùng, hình thành phôi nang ở nam giới Oligoasthenozoospermia sau ICSI: Một nghiên cứu time-lapse chia noãn - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự Nanopore phát hiện phôi mang chuyển đoạn cân bằng trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự gene đơn phân tử thế hệ thứ ba cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội và mất cân bằng phân đoạn nhiễm sắc thể - Ngày đăng: 18-12-2023
Hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Ca2+ inophores sau ICSI ở các trường hợp tiền căn thụ tinh kém - Ngày đăng: 14-12-2023
Một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm có đối chứng về hiệu quả của hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 14-12-2023
Mối liên hệ giữa các điều kiện lâm sàng khác nhau và phôi khảm - Ngày đăng: 11-12-2023
Đánh giá cá nhân hoá nguy cơ lặp lại sau khi sinh con bị đột biến de novo gây bệnh - Ngày đăng: 11-12-2023
Noãn thoái hóa trong một đoàn hệ noãn ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ IVF cổ điển: một nghiên cứu so sánh điểm xu hướng - Ngày đăng: 11-12-2023
Tuổi bố cao không ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống và kết quả chu sinh sau thụ tinh ống nghiệm: một phân tích trên 56.113 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 11-12-2023
Tác động của tiền sử sẩy thai liên tiếp đến kết quả sinh sản ở phụ nữ đang điều trị hiếm muộn - Ngày đăng: 11-12-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK