Tin tức
on Thursday 14-12-2023 8:58pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNXN. Nguyễn Thị Thanh Huệ
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Sự ra đời của kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic Sperm Injection - ICSI) vào năm 1992 đã cách mạng hóa trong điều trị vô sinh nam, cho phép các cặp vợ chồng vô sinh do bất thường tinh trùng nghiêm trọng vẫn có thể có con. Hiện tại, mặc dù tỷ lệ thụ tinh sau ICSI được báo cáo lớn hơn 65%, tuy nhiên các trường hợp thất bại thụ tinh toàn bộ chiếm khoảng 1 - 3% trên tất cả các chu kỳ ICSI. Sự vắng mặt của quá trình hoạt hóa noãn là nguyên nhân chính gây thất bại thụ tinh, chiếm 40 - 70% nguyên nhân thất bại thụ tinh sau ICSI. Trong quá trình thụ tinh bình thường, khi tinh trùng đi vào noãn bào sẽ giải phóng phospholipase C zeta, gây ra dao động Ca2+ hoạt hóa noãn và thụ tinh. Trong trường hợp, nếu dao động Ca2+ không xảy ra do các yếu tố liên quan đến noãn hoặc tinh trùng, noãn sẽ không được hoạt hóa dẫn đến thất bại thụ tinh. Để khắc phục thất bại thụ tinh sau ICSI, hoạt hóa noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation - AOA) được phát triển và thực hiện rộng rãi trong thực hành lâm sàng, như sử dụng Ca2+ ionophores, Stronti clorua (SrCl2),… phương pháp kích thích cơ học và điện học. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá liệu hoạt hóa noãn nhân tạo bằng cách sử dụng Ca2+ ionophores sau ICSI có giúp cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống cho các cặp vợ chồng có tỷ lệ thụ tinh thấp (≤ 50%) ở các chu kỳ ICSI trước đó hay không.
Nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm được thực hiện từ tháng 01/2015 đến 12/2019, đối tượng nghiên cứu là những cặp vợ chồng có tỷ lệ thụ tinh £ 50% trong chu kỳ ICSI trước đó, trong lần điều trị tiếp theo được thực hiện chỉ định AOA. Các tế bào noãn chọc hút từ 2 chu kỳ được chia làm 2 nhóm: nhóm nghiên cứu (ICSI – AOA, n = 402) và nhóm đối chứng (ICSI, n = 247). Nghiên cứu cho thấy tuổi nữ tại thời điểm chọc hút cao hơn đáng kể ở nhóm nghiên cứu (37,74 ± 0,23 tuổi so với 36,72 ± 0,24 tuổi; P < 0,001) và số lượng tế bào noãn trưởng thành thấp hơn đáng kể (4,82 ± 0,26 so với 5,70 ± 0,27; P < 0,05). Tỷ lệ thụ tinh ở nhóm nghiên cứu (53,7%) cao hơn đáng kể so với nhóm ICSI thông thường (20,8%) (OR: 4,4; 95%, KTC: 3,8–5,2; P < 0,001). Bên cạnh đó, tỷ lệ phôi phân chia, phôi nang và phôi nang chất lượng tốt ở nhóm nghiên cứu cao hơn đáng kể (lần lượt là 36,9%, 30,1% và 12,3%) so với nhóm đối chứng (22,1%; 17,2% và 6,3%). Về kết quả lâm sàng, tỷ lệ mang thai sinh hóa và mang thai lâm sàng cao hơn đáng kể ở nhóm nghiên cứu (lần lượt là 35,4% và 28,2%). Nhìn chung, điều trị ICSI - AOA làm tăng đáng kể tỷ lệ sinh sống (18,0%) so với ICSI đơn thuần (4,7%) (OR 4,5; 95%, KTC: 1,6 - 12,6; P<0,01). Tỷ lệ noãn thoái hóa, sẩy thai, sinh non và dị tật bẩm sinh gây tử vong là tương tự nhau giữa hai nhóm.
Để đánh giá hiệu quả điều trị ICSI - AOA theo độ tuổi trong lần điều trị đầu tiên, tác giả đã chia 2 nhóm: nhóm trẻ tuổi (≤ 35 tuổi) và nhóm lớn tuổi (≥ 36 tuổi). Ở nhóm trẻ tuổi, phân nhóm ICSI - AOA có tỷ lệ mang thai lâm sàng (32,1%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (19,1%) cao hơn đáng kể so với phân nhóm chỉ ICSI (lần lượt là 5,9% và 0,0%). Không ghi nhận có sự khác biệt trong nhóm lớn tuổi.
Khi dựa vào số lượng chu kỳ chọc hút, nghiên cứu cho thấy ở nhóm ICSI - AOA làm tăng tỷ lệ sinh sống từ 6,1% lên 18,4% ở các cặp vợ chồng chưa từng chọc hút noãn trước đó và từ 0,0% đến 16,0% ở những cặp vợ chồng có tiền sử ít nhất một lần lấy noãn bào. Để làm rõ mối quan hệ giữa tỷ lệ thụ tinh của ICSI và ICSI - AOA, dựa vào tỷ lệ thụ tinh trong các chu kỳ ICSI trước đó, các tế bào noãn được chia thành 3 nhóm: 0%, 0 - 30% và 30 - 50%. Điều trị ICSI-AOA đã cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống từ 0,0% lên 14,4% ở nhóm 0%; 6,5% lên 21,2% ở nhóm 0 - 30% và 4,4% lên 19,7% ở nhóm 30 - 50% (OR 5,3; 95%, KTC: 1,1 - 24,5; P<0,05).
Tóm lại, ICSI - AOA sử dụng Ca2+ ionophores cải thiện đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống của các cặp vợ chồng có tỷ lệ thụ tinh ≤ 50% ở chu kỳ trước sau khi ICSI thông thường. Phụ nữ trẻ hơn và chưa chọc hút noãn có thể được hưởng lợi từ AOA. Tuy nhiên nghiên cứu này còn nhiều hạn chế, cần có nhiều nghiên cứu hơn trong tương lai để xác nhận tính hiệu quả và an toàn của AOA sử dụng Ca2+ inophores.
TLTK: Akashi, Kazuhiro, et al. "Artificial oocyte activation using Ca2+ ionophores following intracytoplasmic sperm injection for low fertilization rate." Frontiers in Endocrinology 14 (2023): 1131808.
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Sự ra đời của kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic Sperm Injection - ICSI) vào năm 1992 đã cách mạng hóa trong điều trị vô sinh nam, cho phép các cặp vợ chồng vô sinh do bất thường tinh trùng nghiêm trọng vẫn có thể có con. Hiện tại, mặc dù tỷ lệ thụ tinh sau ICSI được báo cáo lớn hơn 65%, tuy nhiên các trường hợp thất bại thụ tinh toàn bộ chiếm khoảng 1 - 3% trên tất cả các chu kỳ ICSI. Sự vắng mặt của quá trình hoạt hóa noãn là nguyên nhân chính gây thất bại thụ tinh, chiếm 40 - 70% nguyên nhân thất bại thụ tinh sau ICSI. Trong quá trình thụ tinh bình thường, khi tinh trùng đi vào noãn bào sẽ giải phóng phospholipase C zeta, gây ra dao động Ca2+ hoạt hóa noãn và thụ tinh. Trong trường hợp, nếu dao động Ca2+ không xảy ra do các yếu tố liên quan đến noãn hoặc tinh trùng, noãn sẽ không được hoạt hóa dẫn đến thất bại thụ tinh. Để khắc phục thất bại thụ tinh sau ICSI, hoạt hóa noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation - AOA) được phát triển và thực hiện rộng rãi trong thực hành lâm sàng, như sử dụng Ca2+ ionophores, Stronti clorua (SrCl2),… phương pháp kích thích cơ học và điện học. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá liệu hoạt hóa noãn nhân tạo bằng cách sử dụng Ca2+ ionophores sau ICSI có giúp cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống cho các cặp vợ chồng có tỷ lệ thụ tinh thấp (≤ 50%) ở các chu kỳ ICSI trước đó hay không.
Nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm được thực hiện từ tháng 01/2015 đến 12/2019, đối tượng nghiên cứu là những cặp vợ chồng có tỷ lệ thụ tinh £ 50% trong chu kỳ ICSI trước đó, trong lần điều trị tiếp theo được thực hiện chỉ định AOA. Các tế bào noãn chọc hút từ 2 chu kỳ được chia làm 2 nhóm: nhóm nghiên cứu (ICSI – AOA, n = 402) và nhóm đối chứng (ICSI, n = 247). Nghiên cứu cho thấy tuổi nữ tại thời điểm chọc hút cao hơn đáng kể ở nhóm nghiên cứu (37,74 ± 0,23 tuổi so với 36,72 ± 0,24 tuổi; P < 0,001) và số lượng tế bào noãn trưởng thành thấp hơn đáng kể (4,82 ± 0,26 so với 5,70 ± 0,27; P < 0,05). Tỷ lệ thụ tinh ở nhóm nghiên cứu (53,7%) cao hơn đáng kể so với nhóm ICSI thông thường (20,8%) (OR: 4,4; 95%, KTC: 3,8–5,2; P < 0,001). Bên cạnh đó, tỷ lệ phôi phân chia, phôi nang và phôi nang chất lượng tốt ở nhóm nghiên cứu cao hơn đáng kể (lần lượt là 36,9%, 30,1% và 12,3%) so với nhóm đối chứng (22,1%; 17,2% và 6,3%). Về kết quả lâm sàng, tỷ lệ mang thai sinh hóa và mang thai lâm sàng cao hơn đáng kể ở nhóm nghiên cứu (lần lượt là 35,4% và 28,2%). Nhìn chung, điều trị ICSI - AOA làm tăng đáng kể tỷ lệ sinh sống (18,0%) so với ICSI đơn thuần (4,7%) (OR 4,5; 95%, KTC: 1,6 - 12,6; P<0,01). Tỷ lệ noãn thoái hóa, sẩy thai, sinh non và dị tật bẩm sinh gây tử vong là tương tự nhau giữa hai nhóm.
Để đánh giá hiệu quả điều trị ICSI - AOA theo độ tuổi trong lần điều trị đầu tiên, tác giả đã chia 2 nhóm: nhóm trẻ tuổi (≤ 35 tuổi) và nhóm lớn tuổi (≥ 36 tuổi). Ở nhóm trẻ tuổi, phân nhóm ICSI - AOA có tỷ lệ mang thai lâm sàng (32,1%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (19,1%) cao hơn đáng kể so với phân nhóm chỉ ICSI (lần lượt là 5,9% và 0,0%). Không ghi nhận có sự khác biệt trong nhóm lớn tuổi.
Khi dựa vào số lượng chu kỳ chọc hút, nghiên cứu cho thấy ở nhóm ICSI - AOA làm tăng tỷ lệ sinh sống từ 6,1% lên 18,4% ở các cặp vợ chồng chưa từng chọc hút noãn trước đó và từ 0,0% đến 16,0% ở những cặp vợ chồng có tiền sử ít nhất một lần lấy noãn bào. Để làm rõ mối quan hệ giữa tỷ lệ thụ tinh của ICSI và ICSI - AOA, dựa vào tỷ lệ thụ tinh trong các chu kỳ ICSI trước đó, các tế bào noãn được chia thành 3 nhóm: 0%, 0 - 30% và 30 - 50%. Điều trị ICSI-AOA đã cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống từ 0,0% lên 14,4% ở nhóm 0%; 6,5% lên 21,2% ở nhóm 0 - 30% và 4,4% lên 19,7% ở nhóm 30 - 50% (OR 5,3; 95%, KTC: 1,1 - 24,5; P<0,05).
Tóm lại, ICSI - AOA sử dụng Ca2+ ionophores cải thiện đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống của các cặp vợ chồng có tỷ lệ thụ tinh ≤ 50% ở chu kỳ trước sau khi ICSI thông thường. Phụ nữ trẻ hơn và chưa chọc hút noãn có thể được hưởng lợi từ AOA. Tuy nhiên nghiên cứu này còn nhiều hạn chế, cần có nhiều nghiên cứu hơn trong tương lai để xác nhận tính hiệu quả và an toàn của AOA sử dụng Ca2+ inophores.
TLTK: Akashi, Kazuhiro, et al. "Artificial oocyte activation using Ca2+ ionophores following intracytoplasmic sperm injection for low fertilization rate." Frontiers in Endocrinology 14 (2023): 1131808.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm có đối chứng về hiệu quả của hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 14-12-2023
Mối liên hệ giữa các điều kiện lâm sàng khác nhau và phôi khảm - Ngày đăng: 11-12-2023
Đánh giá cá nhân hoá nguy cơ lặp lại sau khi sinh con bị đột biến de novo gây bệnh - Ngày đăng: 11-12-2023
Noãn thoái hóa trong một đoàn hệ noãn ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ IVF cổ điển: một nghiên cứu so sánh điểm xu hướng - Ngày đăng: 11-12-2023
Tuổi bố cao không ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống và kết quả chu sinh sau thụ tinh ống nghiệm: một phân tích trên 56.113 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 11-12-2023
Tác động của tiền sử sẩy thai liên tiếp đến kết quả sinh sản ở phụ nữ đang điều trị hiếm muộn - Ngày đăng: 11-12-2023
Ảnh hưởng của adenomyosis đến kết quả thụ tinh ống nghiệm ở những chu kỳ xin noãn: một nghiên cứu quan sát tiến cứu - Ngày đăng: 11-12-2023
Cập nhật khuyến cáo bổ sung acid folic nhằm dự phòng dị tật ống thần kinh ở thai nhi 2023 - Ngày đăng: 11-12-2023
Mối liên hệ giữa các chế độ ăn và nguy cơ sẩy thai: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 05-12-2023
So sánh giữa Tamoxifen và liệu pháp thay thế hormone (HRT) trong chuyển phôi: Một nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 05-12-2023
Hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser giúp cải thiện kết quả thai trong các chu kỳ chuyển phôi trữ ở giai đoạn phôi phân chia: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu cỡ mẫu lớn sử dụng phương pháp so sánh điểm xu hướng - Ngày đăng: 05-12-2023
Lựa chọn phôi thông qua trí tuệ nhân tạo so với chuyên viên phôi học: một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 05-12-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK