Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 05-12-2023 3:22pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Liên Mỹ Dinh – IVFMD SIH - Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
 

Giới thiệu
Hiện nay, số lượng các chu kỳ chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer - FET) đang ngày càng gia tăng đối với chu trình thụ tinh trong ống nghiệm, nguyên nhân là do tỉ lệ thai và trẻ sinh sống tương đương với chu kỳ chuyển phôi tươi hoặc thậm chí tốt hơn trong một số trường hợp.
 
Việc làm tổ thành công của phôi phụ thuộc vào sự phát triển đầy đủ của nội mạc tử cung (NMTC); do đó, việc xem xét độ dày và hình dạng của NMTC là nhân tố thiết yếu cho FET. Các phương pháp phổ biến thường được sử dụng để chuẩn bị nội mạc tử cung bao gồm chu kỳ tự nhiên, liệu pháp thay thế hormone (hormone replacement treatment - HRT) hoặc chu kỳ kích thích. Mỗi phương pháp trên đều có những lợi ích và bất lợi riêng và cho tới nay vẫn chưa có phương pháp nào là tiêu chuẩn vàng trong chuẩn bị nội mạc tử cung cho chuyển phôi trữ.
 
Tamoxifen (TMX) là một chất điều biến thụ thể estrogen chọn lọc (selective estrogen receptor modulator - SERM) được chấp thuận là tác nhân có hiệu quả cao trong phòng ngừa và điều trị ung thư vú. Ngoài ra, TMX còn được sử dụng để kích thích rụng trứng. TMX có tác dụng là chất chủ vận lên thụ thể estrogen ở nội mạc tử cung trong quá trình kích thích rụng trứng và tăng độ dày nội mạc tử cung. Các nghiên cứu trước đây ở những bệnh nhân có nội mạc tử cung mỏng cho thấy tỷ lệ làm tổ thành công được cải thiện sau khi điều trị bằng TMX ở FET. Vì vậy, mục tiêu của bài nghiên cứu này là so sánh độ dày nội mạc tử cung và kết quả thai lâm sàng trong liệu pháp thay thế hormone hoặc kết hợp tamoxifen và gonadotropin để chuẩn bị nội mạc tử cung trong FET.
 
Vật liệu và Phương pháp
Phụ nữ 18-42 tuổi được chỉ định IVF không có tiền sử vô sinh nam nặng, lạc NMTC nặng độ 3 và 4, vô kinh nguyên phát và thứ phát. Những BN có phôi bị thoái hóa và chất lượng kém sau khi rã đông hoặc không có phôi sống sau quy trình rã đông sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
 
214 BN được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm. Việc phân bổ ngẫu nhiên được thực hiện sử dụng danh sách ngẫu nhiên do máy tính tạo ra. Các  nghiên cứu viên và chuyên viên phân tích số liệu đều không biết phương thức điều trị cho BN. Tuy nhiên BN sẽ biết mình thuộc nhóm nào thông qua loại thuốc được sử dụng.
  • Chuẩn bị nội mạc
Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm: Nhóm đầu tiên BN được sử dụng kết hợp TMX và HMG (nhóm TMX); nhóm thứ hai thực hiện chuẩn bị nội tiết tố nhân tạo theo quy trình thường quy (nhóm HRT).
 
Nhóm 1: TMX 20mg 2 lần/ngày từ ngày thứ ba chu kỳ kinh trong năm ngày liên tiếp và HMG tiêm bắp liều 150 mg vào ngày 6 và 8. BN được đánh giá vào ngày 10 của chu kỳ bằng siêu âm ngả âm đạo để đo đường kính nang noãn và độ dày nội mạc tử cung. Kích thích bằng HMG cho đến khi kích thước nang đạt 18 mm. Siêu âm 3 ngày/lần cho đến khi độ dày nội mạc tử cung  ≥8 mm và đường kính nang vượt trội là 18mm; sau đó tiêm HCG 10000 IU để kích thích rụng trứng. Nếu độ dày nội mạc tử cung không đạt 8 mm sau 15 ngày, chu kỳ sẽ bị hủy bất kể đường kính nang noãn như thế nào. Progesterone âm đạo 200 mg được sử dụng 3 lần/ngày, 48 giờ sau khi tiêm hCG. FET được thực hiện vào ngày thứ 4 sử dụng progesterone. Tiếp tục hỗ trợ hoàng thể bằng progesterone nếu xét nghiệm βhCG dương tính ít nhất trong 8 tuần, nếu không thì sẽ ngừng ngay sau khi thử thai âm tính.
 
Trong nhóm HRT, thuốc tránh thai đường uống-LD được uống vào ngày năm của chu kỳ trước và tiếp tục trong 21 ngày. 1/3 decapeptil depo 3,75 được dùng vào ngày 21 của chu kỳ. Khi bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt, siêu âm ngả âm đạo được thực hiện để xác nhận độ giảm mẫn cảm tuyến yên nếu buồng trứng không có nang lớn và độ dày nội mạc tử cung dưới 5 mm, estradiol valerate đường uống với liều 2 mg 2 lần/ngày và tăng lên 2mg 3 lần/ngày sau 3 ngày. Ngày thứ 12 siêu âm để theo dõi độ dày nội mạc tử cung. Liều estradiol được điều chỉnh theo độ dày nội mạc tử cung để đạt tối đa 8 mg mỗi ngày. Siêu âm được lặp lại 3 ngày một lần. Khi độ dày NMTC đạt 8 mm, progesterone 200 mg đặt âm đạo được bắt đầu 3 lần/ngày. Chuyển phôi vào ngày thứ 6 sử dụng progesterone. Estrogen tiếp tục ở liều tương tự cho đến tuần thứ 8 của thai kỳ.
Ở cả hai nhóm, hỗ trợ hoàng thể tiếp tục cho đến khi có kết quả thử thai lại. Nếu có thai, tiếp tục dùng thuốc cho đến tuần thứ 8 của thai kỳ.
 
Kết quả
 
Có 214 BN được đưa vào nghiên cứu, tuy nhiên sau quá trình sàng lọc còn 176 BN đủ tiêu chuẩn nghiên cứu và được phân tích số liệu, trong đó nhóm TMX có 84 BN và nhóm HRT có 92 BN. Các chỉ số tuổi, BMI, thời gian vô sinh, FSH, LH và tỷ lệ LH/FSH của BN trong các nhóm nghiên cứu đều không có khác biệt có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về loại vô sinh (nguyên phát và thứ phát), nguyên nhân vô sinh, kinh nguyệt đều và không đều.
 
Không có khác biệt ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ thai sinh hóa (p = 0,663), thai lâm sàng (p = 0,994) và thai diễn tiến (p = 0,423) ở nhóm HRT và TMX. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ hủy chu kỳ ở cả hai nhóm (p=0,098). Độ dày NMTC trung bình của BN ở nhóm TMX là 8,72 ± 1,45 mm và ở nhóm HRT là 9,00 ± 1,69mm, không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0.423).
 
Kết luận
Kết quả nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ dày NMTC ở 2 nhóm. Những phát hiện này cho thấy tamoxifen và gonadotropin có thể có hiệu quả trong việc chuẩn bị NMTC trong chuyển phôi đông lạnh. Nghiên cứu cũng cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ thai sinh hóa, tỷ lệ thai diễn tiến và tỷ lệ làm tổ giữa hai nhóm. Việc sử dụng tamoxifen và gonadotropin để chuẩn bị NMTC cho FET có thể có hiệu quả như nhóm GnRH và estradiol valerate. Trong khi đó, Tamoxifen là thuốc rẻ tiền và sẵn có nên nó có thể là thuốc thay thế thích hợp trong chu kỳ FET.
 
Nguồn: Ebrahimi R, Mahmoudinia M, Khadem N, Rastaghi S, Souizi B, Sadeghi T. Comparison of tamoxifen and hormone replacement cycle (HRT) in frozen embryo transfer. A randomized controlled trial. JBRA Assist Reprod. 2023 Jun 22;27(2):241-246. doi: 10.5935/1518-0557.20220078. PMID: 36749805; PMCID: PMC10279440.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK