Tin tức
on Monday 18-12-2023 9:59pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Dương Thị Ngọc Nữ - IVFMD Tân Bình
Giới thiệu:
Lệch bội là yếu tố nguy cơ chính gây sẩy thai liên tiếp, làm tăng khả năng sinh con bị dị tật bẩm sinh. Để tăng cơ hội sinh con khỏe mạnh, có thể thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để phát hiện lệch bội nhiễm sắc thể (preimplantation genetic testing for aneuploidy – PGT-A) và ưu tiên chuyển phôi nguyên bội. Hiện tại, PGT-A được thực hiện theo công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới (next-generation sequencing – NGS) dựa trên giải trình tự toàn bộ bộ gene có độ bao phủ thấp hoặc giải trình tự mục tiêu. Các nền tảng NGS tiên tiến nhất được sử dụng cho PGT-A như MiSeq (Illumina), Ion GeneStudio S5 (Thermo Fisher Scientific), và có sẵn các kit thương mại cho xét nghiệm lệch bội NST. Tuy nhiên, những nền tảng này có chi phí thiết bị cao và thời gian thực hiện dài.
Gần đây, công nghệ giải trình tự đơn phân tử của Oxford Nanopore Technologies đã được khám phá về tính khả thi của nó như một nền tảng thay thế trong PGT-A. Công nghệ này sử dụng dòng điện điều hướng mạch đơn DNA đi qua các lỗ nano và sự thay đổi của các nucleotide khi chạy qua lỗ nano tạo ra sự chênh lệch cường độ dòng điện. Các tín hiệu điện được ghi nhận sau đó chuyển đổi thành thông tin trình tự nucleotide. Trong nghiên cứu này, công nghệ giải trình tự Nanopore được đánh giá về khả năng phát hiện lệch bội nguyên nhiễm sắc thể và lệch bội phân đoạn (vi mất đoạn) từ mẫu đơn bào; mẫu đa bào và mẫu sinh thiết 1-5 tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE) sẽ được so sánh độ tương đồng kết quả giải trình tự với công nghệ NGS.
Phương pháp:
Các bản sao đơn bào và đa bào từ các dòng tế bào lệch bội hoặc mất cân bằng phân đoạn (n = 208) được khuếch đại bằng bộ kit SurePlex (Illumina), phân ngẫu nhiên và thực hiện (a) giải trình tự phân tử đơn dựa trên công nghệ Nanopore (Oxford Nanopore Technologies) và (b) NGS bằng cách sử dụng giải pháp PGT-A thương mại hàng đầu (Illumina VeriSeq PGS). Các mẫu sinh thiết tế bào lá nuôi (TE) đã được khuếch đại SurePlex (n = 96) được phân tích trước đây sử dụng bộ kit thương mại được làm mù và phân tích lại bằng Nanopore. Giải trình tự NGS sử dụng bộ kit Illumina VeriSeq PGS và thiết bị MiSeq NGS, đạt được tối thiểu 250.000 trình tự đọc cho mỗi mẫu. Giải trình tự Nanopore được thực hiện bằng phần mềm MinKNOW trên thiết bị MinION Mk1B (MinKNOW v20.06.5, Oxford Nanopore Technologies) được kết nối với máy tính hoặc thiết bị MinION Mk1C (MinKNOW v21.02.2, Oxford Nanopore Technologies). Giải trình tự được tiến hành trong 24 giờ để thu được tối thiểu 2,4 triệu trình tự đọc mỗi lần chạy.
Kết quả:
PGT-A dựa trên công nghệ nanopore đã xác định được sự bất thường cụ thể của các đơn bào/đa bào mang lệch bội là 95,45% hoặc mất cân bằng phân đoạn là 97,78% (10–30,5 Mb). So sánh với kết quả của bộ kit thương mại (VeriSeq PGS) cho thấy sự tương đồng ở mẫu lệch bội là 98,86% (87/88) và 98,89% (89/90) đối với mẫu lệch bội phân đoạn. Độ nhạy phát hiện đối với mất cân bằng phân đoạn nhỏ hơn (5–5,8 Mb, n = 30) giảm rõ rệt trên cả hai nền tảng. Phân tích lại PGT-A dựa trên Nanopore của các mẫu sinh thiết phôi nang có tỷ lệ tương đồng là 97,92% (94/96) với kết quả của bộ dụng cụ thương mại.
Kết luận:
Có thể giải trình tự lên đến 24 mẫu đơn bào, đa bào hoặc tế bào lá nuôi đã được khuếch đại SurePlex trên một thiết bị MinION flow-cell duy nhất cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ nhằm phát hiện lệch bội hoặc bất thường cấu trúc NST (PGT-A/SR), với kết quả thu được trong 3 ngày và chi phí cho mỗi mẫu cạnh tranh với các sản phẩm thương mại. Giải trình tự phân tử đơn thế hệ thứ ba của Nanopore là một giải pháp khả thi thay thế cho các giải pháp PGT-A dựa trên NGS thương mại hiện tại để sàng lọc tình trạng mất cân bằng phân đoạn và lệch bội NST (≥10 Mb) của các mẫu đơn/đa bào hoặc mẫu sinh thiết tế bào lá nuôi.
TLTK: Tan, V. J., Liu, T., Arifin, Z., Pak, B., Tan, A. S., Wong, S., ... & Chong, S. S. (2023). Third-generation single-molecule sequencing for preimplantation genetic testing of aneuploidy and segmental imbalances. Clinical Chemistry, 69(8), 881-889.
Giới thiệu:
Lệch bội là yếu tố nguy cơ chính gây sẩy thai liên tiếp, làm tăng khả năng sinh con bị dị tật bẩm sinh. Để tăng cơ hội sinh con khỏe mạnh, có thể thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để phát hiện lệch bội nhiễm sắc thể (preimplantation genetic testing for aneuploidy – PGT-A) và ưu tiên chuyển phôi nguyên bội. Hiện tại, PGT-A được thực hiện theo công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới (next-generation sequencing – NGS) dựa trên giải trình tự toàn bộ bộ gene có độ bao phủ thấp hoặc giải trình tự mục tiêu. Các nền tảng NGS tiên tiến nhất được sử dụng cho PGT-A như MiSeq (Illumina), Ion GeneStudio S5 (Thermo Fisher Scientific), và có sẵn các kit thương mại cho xét nghiệm lệch bội NST. Tuy nhiên, những nền tảng này có chi phí thiết bị cao và thời gian thực hiện dài.
Gần đây, công nghệ giải trình tự đơn phân tử của Oxford Nanopore Technologies đã được khám phá về tính khả thi của nó như một nền tảng thay thế trong PGT-A. Công nghệ này sử dụng dòng điện điều hướng mạch đơn DNA đi qua các lỗ nano và sự thay đổi của các nucleotide khi chạy qua lỗ nano tạo ra sự chênh lệch cường độ dòng điện. Các tín hiệu điện được ghi nhận sau đó chuyển đổi thành thông tin trình tự nucleotide. Trong nghiên cứu này, công nghệ giải trình tự Nanopore được đánh giá về khả năng phát hiện lệch bội nguyên nhiễm sắc thể và lệch bội phân đoạn (vi mất đoạn) từ mẫu đơn bào; mẫu đa bào và mẫu sinh thiết 1-5 tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE) sẽ được so sánh độ tương đồng kết quả giải trình tự với công nghệ NGS.
Phương pháp:
Các bản sao đơn bào và đa bào từ các dòng tế bào lệch bội hoặc mất cân bằng phân đoạn (n = 208) được khuếch đại bằng bộ kit SurePlex (Illumina), phân ngẫu nhiên và thực hiện (a) giải trình tự phân tử đơn dựa trên công nghệ Nanopore (Oxford Nanopore Technologies) và (b) NGS bằng cách sử dụng giải pháp PGT-A thương mại hàng đầu (Illumina VeriSeq PGS). Các mẫu sinh thiết tế bào lá nuôi (TE) đã được khuếch đại SurePlex (n = 96) được phân tích trước đây sử dụng bộ kit thương mại được làm mù và phân tích lại bằng Nanopore. Giải trình tự NGS sử dụng bộ kit Illumina VeriSeq PGS và thiết bị MiSeq NGS, đạt được tối thiểu 250.000 trình tự đọc cho mỗi mẫu. Giải trình tự Nanopore được thực hiện bằng phần mềm MinKNOW trên thiết bị MinION Mk1B (MinKNOW v20.06.5, Oxford Nanopore Technologies) được kết nối với máy tính hoặc thiết bị MinION Mk1C (MinKNOW v21.02.2, Oxford Nanopore Technologies). Giải trình tự được tiến hành trong 24 giờ để thu được tối thiểu 2,4 triệu trình tự đọc mỗi lần chạy.
Kết quả:
PGT-A dựa trên công nghệ nanopore đã xác định được sự bất thường cụ thể của các đơn bào/đa bào mang lệch bội là 95,45% hoặc mất cân bằng phân đoạn là 97,78% (10–30,5 Mb). So sánh với kết quả của bộ kit thương mại (VeriSeq PGS) cho thấy sự tương đồng ở mẫu lệch bội là 98,86% (87/88) và 98,89% (89/90) đối với mẫu lệch bội phân đoạn. Độ nhạy phát hiện đối với mất cân bằng phân đoạn nhỏ hơn (5–5,8 Mb, n = 30) giảm rõ rệt trên cả hai nền tảng. Phân tích lại PGT-A dựa trên Nanopore của các mẫu sinh thiết phôi nang có tỷ lệ tương đồng là 97,92% (94/96) với kết quả của bộ dụng cụ thương mại.
Kết luận:
Có thể giải trình tự lên đến 24 mẫu đơn bào, đa bào hoặc tế bào lá nuôi đã được khuếch đại SurePlex trên một thiết bị MinION flow-cell duy nhất cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ nhằm phát hiện lệch bội hoặc bất thường cấu trúc NST (PGT-A/SR), với kết quả thu được trong 3 ngày và chi phí cho mỗi mẫu cạnh tranh với các sản phẩm thương mại. Giải trình tự phân tử đơn thế hệ thứ ba của Nanopore là một giải pháp khả thi thay thế cho các giải pháp PGT-A dựa trên NGS thương mại hiện tại để sàng lọc tình trạng mất cân bằng phân đoạn và lệch bội NST (≥10 Mb) của các mẫu đơn/đa bào hoặc mẫu sinh thiết tế bào lá nuôi.
TLTK: Tan, V. J., Liu, T., Arifin, Z., Pak, B., Tan, A. S., Wong, S., ... & Chong, S. S. (2023). Third-generation single-molecule sequencing for preimplantation genetic testing of aneuploidy and segmental imbalances. Clinical Chemistry, 69(8), 881-889.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Ca2+ inophores sau ICSI ở các trường hợp tiền căn thụ tinh kém - Ngày đăng: 14-12-2023
Một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm có đối chứng về hiệu quả của hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 14-12-2023
Mối liên hệ giữa các điều kiện lâm sàng khác nhau và phôi khảm - Ngày đăng: 11-12-2023
Đánh giá cá nhân hoá nguy cơ lặp lại sau khi sinh con bị đột biến de novo gây bệnh - Ngày đăng: 11-12-2023
Noãn thoái hóa trong một đoàn hệ noãn ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ IVF cổ điển: một nghiên cứu so sánh điểm xu hướng - Ngày đăng: 11-12-2023
Tuổi bố cao không ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống và kết quả chu sinh sau thụ tinh ống nghiệm: một phân tích trên 56.113 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 11-12-2023
Tác động của tiền sử sẩy thai liên tiếp đến kết quả sinh sản ở phụ nữ đang điều trị hiếm muộn - Ngày đăng: 11-12-2023
Ảnh hưởng của adenomyosis đến kết quả thụ tinh ống nghiệm ở những chu kỳ xin noãn: một nghiên cứu quan sát tiến cứu - Ngày đăng: 11-12-2023
Cập nhật khuyến cáo bổ sung acid folic nhằm dự phòng dị tật ống thần kinh ở thai nhi 2023 - Ngày đăng: 11-12-2023
Mối liên hệ giữa các chế độ ăn và nguy cơ sẩy thai: tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 05-12-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK