Tin tức
on Monday 25-12-2023 9:11am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Trần Phương Duyên - IVFMD Tân Bình
1. Giới thiệu
Đối với nam giới bị OAT (Oligo-Astheno-Teratospermia) nặng, tinh trùng có thể sẽ phải thu nhận từ phẫu thuật nhưng số lượng thu được rất ít. Do đó việc trữ lạnh tinh trùng nhằm tích lũy, tránh phẫu thuật lại nhiều lần giúp giảm bớt nỗi đau và gánh nặng tài chính cho bệnh nhân. Trong các kỹ thuật trữ lạnh tinh trùng truyền thống, việc thất thoát tinh trùng có thể xảy ra trong quá trình trữ và tiếp xúc với chất bảo quản đông lạnh (cryoprotective agents – CPA). Vì vậy, làm thế nào để trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ ở nam giới vẫn là chủ đề nóng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản. Do đó nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá khả năng phục hồi của một tinh trùng sau rã đông, với các kết quả phát triển phôi thai và kết quả lâm sàng ở nhóm bệnh nhận OAT nặng và vô tinh không bế tắc (non-obstructive azoospermia – NOA) của phương pháp trữ từng tinh trùng đơn lẻ so với các phương pháp trữ thông thường.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, phân tích kết quả phôi học và lâm sàng của việc trữ lạnh và rã đông tinh trùng đơn lẻ của những bệnh nhân đã trải qua micro-TESE.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chí nhận: 1) Bệnh nhân được chẩn đoán là OAT nặng hoặc NOA; 2) Bệnh nhân đã trải qua micro-TESE; 3) Tinh trùng thực hiện trữ lạnh đơn lẻ. Tiêu chí loại là tinh trùng được bảo quản lạnh nhưng không thực hiện rã đông và thụ tinh. Do đó, tổng cộng 38 chu kỳ đã được chọn làm nhóm nghiên cứu. Nhóm đối chứng có tỷ lệ lớn hơn 4:1. Tổng cộng có 618 chu kỳ bao gồm các bệnh nhân đã trải qua micro-TESE và trữ lạnh thông thường.
2.3. Thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn và trữ lạnh tinh trùng
Các ống sinh tinh chứa tinh trùng được thu nhận bằng micro-TESE. Tinh trùng được tìm kiếm bằng kính hiển vi, sau đó tinh trùng được trữ bằng phương pháp đông lạnh từng tinh trùng đơn lẻ (nhóm nghiên cứu) hoặc đông lạnh thông thường tùy theo số lượng tinh trùng (nhóm đối chứng).
Bảo quản lạnh tinh trùng đơn lẻ sử dụng dụng cụ trữ là cryopiece. Giọt môi trường trữ được đặt vào giữa cryopiece, nhúng chìm trong dầu. Với hệ thống vi thao tác và kim tiêm ICSI, tinh trùng được chuyển từ giọt thu sang giọt trữ trên cryopiece, loại bỏ dầu khoáng còn sót lại trên cryopiece bằng gạc vô trùng y tế trước khi cho vào cryotube 2.0 mL, tiếp theo là để ở hơi nitơ lỏng trong vòng 15 phút và sau đó được bảo quản trực tiếp trong nitơ lỏng.
Hình 1: Mô hình quy trình trữ lạnh/rã đông bằng cryopiece. (A) Mảnh polypropylen (cryopiece) và vật chứa cryotube. (B) Cryopiece có các giọt môi trường trữ được đặt vào đáy đĩa, các vi dải môi trường nuôi cấy và các giọt PVP tráng kim khác được đặt trực tiếp lên đĩa, sau đó phủ một lớp dầu khoáng. (C) Mẫu tinh trùng thu từ phẫu thuật được rửa vào các vi dải, sau đó tinh trùng di động được hút bằng kim ICSI cho vào giọt môi trường trữ trên cryopiece. (D) Cryopiece cho vào cryotube và làm lạnh bằng hơi nitơ lỏng trước khi bảo quản trực tiếp trong nitơ. (E) Cryopiece chứa tinh trùng được đưa vào đáy đĩa, sau đó phủ một lớp dầu khoáng đã làm ấm trước để rã đông, tinh trùng thu hồi được chuẩn bị cho ICSI (F).
Trữ lạnh tinh trùng thông thường: Huyền phù tinh trùng được pha loãng theo tỷ lệ 1:1 với môi trường trữ, để cryotube tại nhiệt độ phòng trong 5 phút, sau đó cho cryotube tiếp xúc với hơi nitơ lỏng trong 15 phút trước khi bảo quản trực tiếp trong nitơ lỏng. Phương pháp này đơn giản, không yêu cầu sử dụng hệ thống vi thao tác.
2.4. Rã đông tinh trùng
1) Rã đông tinh trùng sau khi trữ lạnh tinh trùng đơn lẻ
Đĩa 35 mm chứa 3 ml dầu khoáng được ủ ở 37°C trong ít nhất 1 giờ. Cryopiece được kéo ra khỏi cryotube trong nitơ lỏng, nhúng ngay vào dầu khoáng 37˚C, sau đó xác định vị trí và khả năng di chuyển của tinh trùng trên cryopiece, thu nhận tinh trùng chuyển sang giọt môi trường đĩa ICSI.
2) Rã đông tinh trùng sau khi trữ lạnh thông thường
Cryotube 2,0 ml được lấy ra khỏi nitơ lỏng và để vào bệ ấm ở 37˚C trong 10 phút. Sau đó tiến hành ly tâm, lọc rửa thông thường để thực hiện ICSI.
3. Kết quả
Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi ngày 3, tỷ lệ phôi ngày 3 chất lượng tốt và tỷ lệ hình thành phôi nang giữa hai nhóm (P > 0,05). Điều này có nghĩa rằng trữ lạnh một tinh trùng có thể đạt được khả năng thụ tinh, chất lượng phôi và tiềm năng phát triển tương tự như trữ lạnh thông thường.
Trong số 19 chu kỳ chuyển phôi tươi ở nhóm đông lạnh một tinh trùng, có 9 chu kỳ thai làm tổ thành công. Và tỷ lệ làm tổ (47,37%) thấp hơn so với nhóm đông lạnh thông thường (52,16%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Tương tự, tỷ lệ thai lâm sàng (36,84% VS 47,18%), tỷ lệ sẩy thai (14,29% VS 12,68%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (85,71% VS 81,70%) giữa hai nhóm khác biệt cũng không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Như vậy trữ lạnh một tinh trùng có thể đạt được kết quả lâm sàng tương tự như trữ lạnh thông thường.
4. Bàn luận
Công nghệ hỗ trợ sinh sản ở người là một công nghệ quan trọng để giải quyết vấn đề vô sinh ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Đặc biệt yếu tố nam giới là yếu tố chính gây vô sinh. Rất nhiều nam giới bị OAT nặng hoặc NOA. TESE/ micro-TESE lặp đi lặp lại đối với những bệnh nhân này rất tốn kém, đồng thời gây ra tác dụng phụ lên tinh hoàn. Một số nghiên cứu đã phân tích chứng minh rằng micro-TESE là phương pháp tối ưu để thu nhận tinh trùng ở bệnh nhân NOA, với ưu điểm là tỷ lệ thu nhận tinh trùng cao hơn và mất mô tối thiểu, điều này cũng tránh được phẫu thuật nhiều lần. Trữ tinh trùng cho những ca micro-TESE, thông thường tinh trùng trải qua quá trình ly tâm, lọc rửa và cho vào cryotube thể tích lớn dẫn đến có thể thất thoát tinh trùng. Do đó, đối với trường hợp đặc biệt khi phẫu thuật chỉ có vài tinh trùng thì phương pháp trữ lạnh thông thường đáng lo ngại. Vì vậy, việc trữ lạnh từng tinh trùng là điều tất yếu đối với tinh trùng từ micro-TESE. Trữ lạnh tinh trùng đơn lẻ là phương pháp tối ưu để bảo quản một lượng nhỏ tinh trùng, với ưu điểm là bảo quản tinh trùng nguyên vẹn và giảm thất thoát tinh trùng sau khi trữ lạnh và rã đông. Trữ lạnh tinh trùng đơn lẻ có thể tránh nguy cơ hủy chu kỳ do thất thoát tinh trùng. Kể từ khi bắt đầu trữ lạnh một tinh trùng, nghiên cứu về dụng cụ đông lạnh và phương pháp đông lạnh đã tiếp tục cải thiện nhằm gia tăng khả năng phục hồi của tinh trùng sau khi rã đông. Rất nhiều vật liệu đã được thiết kế để trữ lạnh từng tinh trùng, và nghiên cứu này đã sử dụng cryopiece, là dụng cụ trữ phi sinh học, được áp dụng để trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ. Thời gian tìm kiếm tinh trùng sau khi rã đông giảm từ vài giờ trong phương pháp trữ lạnh thông thường xuống còn vài phút và tỷ lệ thu hồi gần 100%. Ngoài ra, tinh trùng được trữ lạnh ở dạng giọt thể tích nhỏ giúp giảm mất tinh trùng sau khi rã đông, cho phép tinh trùng được chuyển trực tiếp sang đĩa ICSI mà không cần ly tâm, lọc rửa. Quy trình này dễ thực hiện và cho tỷ lệ thu hồi, khả năng di động, tỷ lệ thụ tinh cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 336 noãn được ICSI bằng cách sử dụng tinh trùng rã đông sau khi trữ lạnh một tinh trùng và 6379 noãn sử dụng tinh trùng sau khi trữ lạnh thông thường. Kết quả cho thấy trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ có thể đạt được kết quả phôi và lâm sàng tương tự với trữ lạnh tinh trùng thông thường ở những bệnh nhân trải qua micro-TESE và phương pháp này có thể bảo vệ tinh trùng nguyên vẹn và thu hồi một cách hiệu quả.
Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào việc tìm hiểu dụng cụ trữ cho phương pháp trữ lạnh từng tinh trùng. Mặc dù một số nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ sống của tinh trùng và kết quả mang thai lâm sàng sau khi trữ lạnh và rã đông một tinh trùng, nhưng các báo cáo chỉ giới hạn ở một vài nghiên cứu điển hình. Nghiên cứu này đã báo cáo 19 chu kỳ chuyển phôi tươi sau khi trữ lạnh và rã đông một tinh trùng, đồng thời làm phong phú thêm dữ liệu về kết quả phôi và kết cục lâm sàng. Tuy nhiên, do số lượng trường hợp trong nghiên cứu còn hạn chế, nên cần thêm một số lượng lớn các trường hợp để quan sát và phân tích sâu hơn.
Tài liệu tham khảo
S. He, W. Su, S. He, and W. Su, “Laboratory and Clinical Outcomes of Single Sperm Cryopreservation in Patients Underwent Micro-TESE,” J Biosci Med (Irvine), vol. 11, no. 11, pp. 334–342, Nov. 2023, doi: 10.4236/JBM.2023.1111028.
1. Giới thiệu
Đối với nam giới bị OAT (Oligo-Astheno-Teratospermia) nặng, tinh trùng có thể sẽ phải thu nhận từ phẫu thuật nhưng số lượng thu được rất ít. Do đó việc trữ lạnh tinh trùng nhằm tích lũy, tránh phẫu thuật lại nhiều lần giúp giảm bớt nỗi đau và gánh nặng tài chính cho bệnh nhân. Trong các kỹ thuật trữ lạnh tinh trùng truyền thống, việc thất thoát tinh trùng có thể xảy ra trong quá trình trữ và tiếp xúc với chất bảo quản đông lạnh (cryoprotective agents – CPA). Vì vậy, làm thế nào để trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ ở nam giới vẫn là chủ đề nóng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản. Do đó nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá khả năng phục hồi của một tinh trùng sau rã đông, với các kết quả phát triển phôi thai và kết quả lâm sàng ở nhóm bệnh nhận OAT nặng và vô tinh không bế tắc (non-obstructive azoospermia – NOA) của phương pháp trữ từng tinh trùng đơn lẻ so với các phương pháp trữ thông thường.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1. Thiết kế nghiên cứuNghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, phân tích kết quả phôi học và lâm sàng của việc trữ lạnh và rã đông tinh trùng đơn lẻ của những bệnh nhân đã trải qua micro-TESE.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chí nhận: 1) Bệnh nhân được chẩn đoán là OAT nặng hoặc NOA; 2) Bệnh nhân đã trải qua micro-TESE; 3) Tinh trùng thực hiện trữ lạnh đơn lẻ. Tiêu chí loại là tinh trùng được bảo quản lạnh nhưng không thực hiện rã đông và thụ tinh. Do đó, tổng cộng 38 chu kỳ đã được chọn làm nhóm nghiên cứu. Nhóm đối chứng có tỷ lệ lớn hơn 4:1. Tổng cộng có 618 chu kỳ bao gồm các bệnh nhân đã trải qua micro-TESE và trữ lạnh thông thường.
2.3. Thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn và trữ lạnh tinh trùng
Các ống sinh tinh chứa tinh trùng được thu nhận bằng micro-TESE. Tinh trùng được tìm kiếm bằng kính hiển vi, sau đó tinh trùng được trữ bằng phương pháp đông lạnh từng tinh trùng đơn lẻ (nhóm nghiên cứu) hoặc đông lạnh thông thường tùy theo số lượng tinh trùng (nhóm đối chứng).
Bảo quản lạnh tinh trùng đơn lẻ sử dụng dụng cụ trữ là cryopiece. Giọt môi trường trữ được đặt vào giữa cryopiece, nhúng chìm trong dầu. Với hệ thống vi thao tác và kim tiêm ICSI, tinh trùng được chuyển từ giọt thu sang giọt trữ trên cryopiece, loại bỏ dầu khoáng còn sót lại trên cryopiece bằng gạc vô trùng y tế trước khi cho vào cryotube 2.0 mL, tiếp theo là để ở hơi nitơ lỏng trong vòng 15 phút và sau đó được bảo quản trực tiếp trong nitơ lỏng.
Hình 1: Mô hình quy trình trữ lạnh/rã đông bằng cryopiece. (A) Mảnh polypropylen (cryopiece) và vật chứa cryotube. (B) Cryopiece có các giọt môi trường trữ được đặt vào đáy đĩa, các vi dải môi trường nuôi cấy và các giọt PVP tráng kim khác được đặt trực tiếp lên đĩa, sau đó phủ một lớp dầu khoáng. (C) Mẫu tinh trùng thu từ phẫu thuật được rửa vào các vi dải, sau đó tinh trùng di động được hút bằng kim ICSI cho vào giọt môi trường trữ trên cryopiece. (D) Cryopiece cho vào cryotube và làm lạnh bằng hơi nitơ lỏng trước khi bảo quản trực tiếp trong nitơ. (E) Cryopiece chứa tinh trùng được đưa vào đáy đĩa, sau đó phủ một lớp dầu khoáng đã làm ấm trước để rã đông, tinh trùng thu hồi được chuẩn bị cho ICSI (F).
Trữ lạnh tinh trùng thông thường: Huyền phù tinh trùng được pha loãng theo tỷ lệ 1:1 với môi trường trữ, để cryotube tại nhiệt độ phòng trong 5 phút, sau đó cho cryotube tiếp xúc với hơi nitơ lỏng trong 15 phút trước khi bảo quản trực tiếp trong nitơ lỏng. Phương pháp này đơn giản, không yêu cầu sử dụng hệ thống vi thao tác.
2.4. Rã đông tinh trùng
1) Rã đông tinh trùng sau khi trữ lạnh tinh trùng đơn lẻ
Đĩa 35 mm chứa 3 ml dầu khoáng được ủ ở 37°C trong ít nhất 1 giờ. Cryopiece được kéo ra khỏi cryotube trong nitơ lỏng, nhúng ngay vào dầu khoáng 37˚C, sau đó xác định vị trí và khả năng di chuyển của tinh trùng trên cryopiece, thu nhận tinh trùng chuyển sang giọt môi trường đĩa ICSI.
2) Rã đông tinh trùng sau khi trữ lạnh thông thường
Cryotube 2,0 ml được lấy ra khỏi nitơ lỏng và để vào bệ ấm ở 37˚C trong 10 phút. Sau đó tiến hành ly tâm, lọc rửa thông thường để thực hiện ICSI.
3. Kết quả
Trong số 19 chu kỳ chuyển phôi tươi ở nhóm đông lạnh một tinh trùng, có 9 chu kỳ thai làm tổ thành công. Và tỷ lệ làm tổ (47,37%) thấp hơn so với nhóm đông lạnh thông thường (52,16%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Tương tự, tỷ lệ thai lâm sàng (36,84% VS 47,18%), tỷ lệ sẩy thai (14,29% VS 12,68%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (85,71% VS 81,70%) giữa hai nhóm khác biệt cũng không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Như vậy trữ lạnh một tinh trùng có thể đạt được kết quả lâm sàng tương tự như trữ lạnh thông thường.
4. Bàn luận
Công nghệ hỗ trợ sinh sản ở người là một công nghệ quan trọng để giải quyết vấn đề vô sinh ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Đặc biệt yếu tố nam giới là yếu tố chính gây vô sinh. Rất nhiều nam giới bị OAT nặng hoặc NOA. TESE/ micro-TESE lặp đi lặp lại đối với những bệnh nhân này rất tốn kém, đồng thời gây ra tác dụng phụ lên tinh hoàn. Một số nghiên cứu đã phân tích chứng minh rằng micro-TESE là phương pháp tối ưu để thu nhận tinh trùng ở bệnh nhân NOA, với ưu điểm là tỷ lệ thu nhận tinh trùng cao hơn và mất mô tối thiểu, điều này cũng tránh được phẫu thuật nhiều lần. Trữ tinh trùng cho những ca micro-TESE, thông thường tinh trùng trải qua quá trình ly tâm, lọc rửa và cho vào cryotube thể tích lớn dẫn đến có thể thất thoát tinh trùng. Do đó, đối với trường hợp đặc biệt khi phẫu thuật chỉ có vài tinh trùng thì phương pháp trữ lạnh thông thường đáng lo ngại. Vì vậy, việc trữ lạnh từng tinh trùng là điều tất yếu đối với tinh trùng từ micro-TESE. Trữ lạnh tinh trùng đơn lẻ là phương pháp tối ưu để bảo quản một lượng nhỏ tinh trùng, với ưu điểm là bảo quản tinh trùng nguyên vẹn và giảm thất thoát tinh trùng sau khi trữ lạnh và rã đông. Trữ lạnh tinh trùng đơn lẻ có thể tránh nguy cơ hủy chu kỳ do thất thoát tinh trùng. Kể từ khi bắt đầu trữ lạnh một tinh trùng, nghiên cứu về dụng cụ đông lạnh và phương pháp đông lạnh đã tiếp tục cải thiện nhằm gia tăng khả năng phục hồi của tinh trùng sau khi rã đông. Rất nhiều vật liệu đã được thiết kế để trữ lạnh từng tinh trùng, và nghiên cứu này đã sử dụng cryopiece, là dụng cụ trữ phi sinh học, được áp dụng để trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ. Thời gian tìm kiếm tinh trùng sau khi rã đông giảm từ vài giờ trong phương pháp trữ lạnh thông thường xuống còn vài phút và tỷ lệ thu hồi gần 100%. Ngoài ra, tinh trùng được trữ lạnh ở dạng giọt thể tích nhỏ giúp giảm mất tinh trùng sau khi rã đông, cho phép tinh trùng được chuyển trực tiếp sang đĩa ICSI mà không cần ly tâm, lọc rửa. Quy trình này dễ thực hiện và cho tỷ lệ thu hồi, khả năng di động, tỷ lệ thụ tinh cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 336 noãn được ICSI bằng cách sử dụng tinh trùng rã đông sau khi trữ lạnh một tinh trùng và 6379 noãn sử dụng tinh trùng sau khi trữ lạnh thông thường. Kết quả cho thấy trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ có thể đạt được kết quả phôi và lâm sàng tương tự với trữ lạnh tinh trùng thông thường ở những bệnh nhân trải qua micro-TESE và phương pháp này có thể bảo vệ tinh trùng nguyên vẹn và thu hồi một cách hiệu quả.
Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào việc tìm hiểu dụng cụ trữ cho phương pháp trữ lạnh từng tinh trùng. Mặc dù một số nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ sống của tinh trùng và kết quả mang thai lâm sàng sau khi trữ lạnh và rã đông một tinh trùng, nhưng các báo cáo chỉ giới hạn ở một vài nghiên cứu điển hình. Nghiên cứu này đã báo cáo 19 chu kỳ chuyển phôi tươi sau khi trữ lạnh và rã đông một tinh trùng, đồng thời làm phong phú thêm dữ liệu về kết quả phôi và kết cục lâm sàng. Tuy nhiên, do số lượng trường hợp trong nghiên cứu còn hạn chế, nên cần thêm một số lượng lớn các trường hợp để quan sát và phân tích sâu hơn.
5. Kết luận
Trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ là phương pháp tối ưu để bảo quản tinh trùng sau micro-TESE. Nó có thể đạt được tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi và kết cục lâm sàng tương tự phương pháp trữ lạnh thông thường. Do đó, trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ bằng phương pháp đông lạnh có hiệu quả để bảo vệ tinh trùng nguyên vẹn và tránh gây thất thoát trong quá trình trữ.Tài liệu tham khảo
S. He, W. Su, S. He, and W. Su, “Laboratory and Clinical Outcomes of Single Sperm Cryopreservation in Patients Underwent Micro-TESE,” J Biosci Med (Irvine), vol. 11, no. 11, pp. 334–342, Nov. 2023, doi: 10.4236/JBM.2023.1111028.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Dự trữ buồng trứng giảm trong bệnh lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 25-12-2023
Kết quả sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ của trẻ sau sinh thiết phôi để xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 25-12-2023
Hiệu quả và lợi ích của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội bắt đầu từ chu kỳ thu nhận noãn: một nghiên cứu thực tế - Ngày đăng: 21-12-2023
Xuất tinh lần thứ hai trong khoảng thời gian ngắn giúp cải thiện chất lượng tinh trùng, hình thành phôi nang ở nam giới Oligoasthenozoospermia sau ICSI: Một nghiên cứu time-lapse chia noãn - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự Nanopore phát hiện phôi mang chuyển đoạn cân bằng trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự gene đơn phân tử thế hệ thứ ba cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội và mất cân bằng phân đoạn nhiễm sắc thể - Ngày đăng: 18-12-2023
Hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Ca2+ inophores sau ICSI ở các trường hợp tiền căn thụ tinh kém - Ngày đăng: 14-12-2023
Một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm có đối chứng về hiệu quả của hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 14-12-2023
Mối liên hệ giữa các điều kiện lâm sàng khác nhau và phôi khảm - Ngày đăng: 11-12-2023
Đánh giá cá nhân hoá nguy cơ lặp lại sau khi sinh con bị đột biến de novo gây bệnh - Ngày đăng: 11-12-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK