Tin tức
on Monday 25-12-2023 9:16am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Cẩm Nhung – IVFMD Tân Bình
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, kỹ thuật xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho phôi lệch bội (PGT-A) làm giảm nguy cơ sẩy thai, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi ≥ 35 tuổi. PGT-A giúp chọn lọc những phôi có nhiễm sắc thể bình thường, tăng khả năng làm tổ, rút ngắn thời gian để bệnh nhân có một thai kỳ khỏe mạnh. Tuy nhiên, PGT-A có phải là lựa chọn tốt cho những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng thấp và không có nhiều phôi để sinh thiết hay không? Mục đích của nghiên cứu là thu thập các thông tin cần thiết để có thể tư vấn cho bệnh nhân chỉ có một phôi nang chất lượng tốt có nên thực hiện PGT-A hay không?
Thiết kế nghiên cứu: Đây là nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 1126 chu kỳ PGT-A và 938 chu kỳ không PGT-A chỉ có một phôi nang với tuổi mẹ từ 20 đến 45 tuổi. Nhóm PGT-A có 225 chu kỳ chuyển phôi nguyên bội và nhóm không PGT-A có 938 chu kỳ chuyển đơn phôi nang.
Kết quả: Phân tích dựa trên mô hình ảnh hưởng hỗn hợp tuyến tính (generalized linear mixed model – GLMM), tuổi mẹ và các biến số PGT-A được cho là những biến số quan trọng ảnh hưởng đến kết quả thai lâm sàng. Ở nhóm PGT-A, tỷ lệ thai lâm sàng và sinh sống lần lượt cao hơn 3,907 và 3,448 lần so với nhóm không PGT-A (p < 0,001). Tỷ lệ sảy thai ở nhóm không PGT-A cao hơn 1,943 lần nhóm có PGT-A có ý nghĩa thống kê (p = 0,013).
Bàn luận: Việc có nên sinh thiết phôi khi bệnh nhân chỉ có một phôi duy nhất là một vấn đề nan giải. Đầu tiên bệnh nhân chỉ có một cơ hội duy nhất để có thai, trong khi đó, sinh thiết là một kỹ thuật xâm lấn có thể làm tổn thương phôi trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, chuyển phôi không biết thông tin di truyền lại làm tăng nguy cơ sảy thai, có thể gây ra các bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sơ sinh. Sảy thai liên tiêp, chấm dứt thai kỳ lệch bội hoặc thất bại làm tổ nhiều lần có thể gây tổn thương cả về tinh thần và thể chất cho bệnh nhân, thậm chí có thể hạn chế việc bệnh nhân tiếp tục điều trị ở những chu kỳ tiếp theo. Ngoài ra, việc nạo hút và chấm dứt thai kỳ có thể gây tổn thương cho tử cung, điều này có thể ảnh hưởng bất lợi tới quá trình chuyển phôi trong tương lai.
Hầu hết các nghiên cứu tiến cứu về PGT-A đều bao gồm những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình thường và đáp ứng bình thường với quá trình kích thích buồng trứng có kiểm soát. Ata và cộng sự (2012) và Kahraman và cộng sự (2016) cho thấy xác suất tìm thấy ít nhất một phôi nguyên bội tăng đáng kể với mỗi noãn bào được lấy thêm. Vì vậy, dự trữ buồng trứng của bệnh nhân càng cao thì cơ hội tìm thấy ít nhất một phôi nguyên bội càng cao. Tuy nhiên, PGT-A có phải là lựa chọn tốt cho những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng thấp (diminished ovarian reserve – DOR) và không có nhiều phôi để sinh thiết? Hiện tại thiếu dữ liệu về hiệu quả của PGT-A ở bệnh nhân DOR. Hiện nay, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về việc bệnh nhân nào được hưởng lợi nhiều nhất từ PGT-A. Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng tỷ lệ sẩy thai giảm khi tiến hành thực hiện sàng lọc phôi lệch bội. Đeng và cộng sự (2020) cũng có kết luận tương tự PGT-A giúp giảm tỷ lệ sẩy thai nhưng không cải thiện tỷ lệ sinh sống ở những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng kém. Tuy nhiên, nhược điểm của nghiên cứu này là nhóm không PGT-A có nhiều hơn một phôi chuyển, cả phôi tươi lẫn phôi trữ trên nhiều chu kỳ, trong khi ở nhóm PGT-A chỉ một phôi nguyên bội được chuyển. Do đó, từ dữ liệu này, rất khó để đưa ra kết luận chắc chắn về hiệu quả của PGT-A đối với bệnh nhân chỉ có một phôi nang duy nhất.
Trong nghiên cứu này, có đến 80% trường hợp không có phôi chuyển, nên nếu tính hiệu quả lâm sàng trên tổng số chu kỳ thực tế sẽ cực kỳ thấp so với nhóm không PGT-A. Tuy nhiên, những số liệu này cho thấy 80% phôi không thích hợp để chuyển và do đó PGT-A đã ngăn chặn việc chuyển phôi vô ích, làm giảm gánh nặng tinh thần của việc sẩy thai, mang thai lệch bội cũng như nguy cơ tổn thương tử cung. Kết quả của nghiên cứu cho thấy lợi ích đáng kể của PGT-A đối với kết quả lâm sàng, mặc dù thực tế là chỉ có 20% chu kỳ PGT-A tìm thấy phôi có nhiễm sắc thể bình thường để chuyển.
Kết luận: PGT-A trong chu kỳ có một phôi nang làm tăng đáng kể tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh sống cũng như giảm số trường hợp sảy thai.
Nguồn: Kahraman, S., Duzguner, I. N. B., Sahin, Y., & Irez, T. (2022). What to advise to patients with only one good quality blastocyst, PGT-A or not? Outcomes of 2064 cycles. Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 39(11), 2555-2562.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, kỹ thuật xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho phôi lệch bội (PGT-A) làm giảm nguy cơ sẩy thai, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi ≥ 35 tuổi. PGT-A giúp chọn lọc những phôi có nhiễm sắc thể bình thường, tăng khả năng làm tổ, rút ngắn thời gian để bệnh nhân có một thai kỳ khỏe mạnh. Tuy nhiên, PGT-A có phải là lựa chọn tốt cho những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng thấp và không có nhiều phôi để sinh thiết hay không? Mục đích của nghiên cứu là thu thập các thông tin cần thiết để có thể tư vấn cho bệnh nhân chỉ có một phôi nang chất lượng tốt có nên thực hiện PGT-A hay không?
Thiết kế nghiên cứu: Đây là nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 1126 chu kỳ PGT-A và 938 chu kỳ không PGT-A chỉ có một phôi nang với tuổi mẹ từ 20 đến 45 tuổi. Nhóm PGT-A có 225 chu kỳ chuyển phôi nguyên bội và nhóm không PGT-A có 938 chu kỳ chuyển đơn phôi nang.
Kết quả: Phân tích dựa trên mô hình ảnh hưởng hỗn hợp tuyến tính (generalized linear mixed model – GLMM), tuổi mẹ và các biến số PGT-A được cho là những biến số quan trọng ảnh hưởng đến kết quả thai lâm sàng. Ở nhóm PGT-A, tỷ lệ thai lâm sàng và sinh sống lần lượt cao hơn 3,907 và 3,448 lần so với nhóm không PGT-A (p < 0,001). Tỷ lệ sảy thai ở nhóm không PGT-A cao hơn 1,943 lần nhóm có PGT-A có ý nghĩa thống kê (p = 0,013).
Bàn luận: Việc có nên sinh thiết phôi khi bệnh nhân chỉ có một phôi duy nhất là một vấn đề nan giải. Đầu tiên bệnh nhân chỉ có một cơ hội duy nhất để có thai, trong khi đó, sinh thiết là một kỹ thuật xâm lấn có thể làm tổn thương phôi trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, chuyển phôi không biết thông tin di truyền lại làm tăng nguy cơ sảy thai, có thể gây ra các bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sơ sinh. Sảy thai liên tiêp, chấm dứt thai kỳ lệch bội hoặc thất bại làm tổ nhiều lần có thể gây tổn thương cả về tinh thần và thể chất cho bệnh nhân, thậm chí có thể hạn chế việc bệnh nhân tiếp tục điều trị ở những chu kỳ tiếp theo. Ngoài ra, việc nạo hút và chấm dứt thai kỳ có thể gây tổn thương cho tử cung, điều này có thể ảnh hưởng bất lợi tới quá trình chuyển phôi trong tương lai.
Hầu hết các nghiên cứu tiến cứu về PGT-A đều bao gồm những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bình thường và đáp ứng bình thường với quá trình kích thích buồng trứng có kiểm soát. Ata và cộng sự (2012) và Kahraman và cộng sự (2016) cho thấy xác suất tìm thấy ít nhất một phôi nguyên bội tăng đáng kể với mỗi noãn bào được lấy thêm. Vì vậy, dự trữ buồng trứng của bệnh nhân càng cao thì cơ hội tìm thấy ít nhất một phôi nguyên bội càng cao. Tuy nhiên, PGT-A có phải là lựa chọn tốt cho những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng thấp (diminished ovarian reserve – DOR) và không có nhiều phôi để sinh thiết? Hiện tại thiếu dữ liệu về hiệu quả của PGT-A ở bệnh nhân DOR. Hiện nay, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về việc bệnh nhân nào được hưởng lợi nhiều nhất từ PGT-A. Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng tỷ lệ sẩy thai giảm khi tiến hành thực hiện sàng lọc phôi lệch bội. Đeng và cộng sự (2020) cũng có kết luận tương tự PGT-A giúp giảm tỷ lệ sẩy thai nhưng không cải thiện tỷ lệ sinh sống ở những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng kém. Tuy nhiên, nhược điểm của nghiên cứu này là nhóm không PGT-A có nhiều hơn một phôi chuyển, cả phôi tươi lẫn phôi trữ trên nhiều chu kỳ, trong khi ở nhóm PGT-A chỉ một phôi nguyên bội được chuyển. Do đó, từ dữ liệu này, rất khó để đưa ra kết luận chắc chắn về hiệu quả của PGT-A đối với bệnh nhân chỉ có một phôi nang duy nhất.
Trong nghiên cứu này, có đến 80% trường hợp không có phôi chuyển, nên nếu tính hiệu quả lâm sàng trên tổng số chu kỳ thực tế sẽ cực kỳ thấp so với nhóm không PGT-A. Tuy nhiên, những số liệu này cho thấy 80% phôi không thích hợp để chuyển và do đó PGT-A đã ngăn chặn việc chuyển phôi vô ích, làm giảm gánh nặng tinh thần của việc sẩy thai, mang thai lệch bội cũng như nguy cơ tổn thương tử cung. Kết quả của nghiên cứu cho thấy lợi ích đáng kể của PGT-A đối với kết quả lâm sàng, mặc dù thực tế là chỉ có 20% chu kỳ PGT-A tìm thấy phôi có nhiễm sắc thể bình thường để chuyển.
Kết luận: PGT-A trong chu kỳ có một phôi nang làm tăng đáng kể tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh sống cũng như giảm số trường hợp sảy thai.
Nguồn: Kahraman, S., Duzguner, I. N. B., Sahin, Y., & Irez, T. (2022). What to advise to patients with only one good quality blastocyst, PGT-A or not? Outcomes of 2064 cycles. Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 39(11), 2555-2562.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Kết quả labo và kết cục lâm sàng của việc trữ lạnh từng tinh trùng đơn lẻ ở bệnh nhân trải qua Micro-TESE - Ngày đăng: 25-12-2023
Dự trữ buồng trứng giảm trong bệnh lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 25-12-2023
Kết quả sản khoa, sơ sinh và sức khoẻ của trẻ sau sinh thiết phôi để xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 25-12-2023
Hiệu quả và lợi ích của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội bắt đầu từ chu kỳ thu nhận noãn: một nghiên cứu thực tế - Ngày đăng: 21-12-2023
Xuất tinh lần thứ hai trong khoảng thời gian ngắn giúp cải thiện chất lượng tinh trùng, hình thành phôi nang ở nam giới Oligoasthenozoospermia sau ICSI: Một nghiên cứu time-lapse chia noãn - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự Nanopore phát hiện phôi mang chuyển đoạn cân bằng trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 18-12-2023
Giải trình tự gene đơn phân tử thế hệ thứ ba cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội và mất cân bằng phân đoạn nhiễm sắc thể - Ngày đăng: 18-12-2023
Hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Ca2+ inophores sau ICSI ở các trường hợp tiền căn thụ tinh kém - Ngày đăng: 14-12-2023
Một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm có đối chứng về hiệu quả của hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 14-12-2023
Mối liên hệ giữa các điều kiện lâm sàng khác nhau và phôi khảm - Ngày đăng: 11-12-2023
Đánh giá cá nhân hoá nguy cơ lặp lại sau khi sinh con bị đột biến de novo gây bệnh - Ngày đăng: 11-12-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK