Tin tức
on Thursday 07-09-2023 10:58am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Lê Thị Vân – IVFVH
Trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm, chuyển phôi có thể được thực hiện ở giai đoạn phôi phân chia hoặc phôi nang. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ làm tổ ở nhóm phôi nang cao hơn so với nhóm phôi phân chia. Ngày nay, chuyển đơn phôi nang đang là xu hướng tại các đơn vị hỗ trợ sinh sản do các điều kiện nuôi cấy phôi nang được cải thiện và việc giảm nguy cơ đa thai. Thông thường, trong nuôi cấy phôi in vitro thì phôi sẽ phát triển thành phôi nang vào ngày thứ 5 (D5) sau khi thụ tinh, nhưng một số phôi phát triển chậm hơn và phát triển thành phôi nang vào ngày thứ 6 (D6) hoặc muộn hơn. Kết quả mang thai của phôi nang chất lượng tốt cao hơn đáng kể so với phôi nang chất lượng kém, trong khi hình thái phôi nang chất lượng kém có liên quan đến tỷ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate – CPR) và tỷ lệ sinh sống (live birth rate – LBR) thấp hơn đáng kể. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chuyển phôi nang D5 có CPR cao hơn so với chuyển phôi nang D6 trong chu kỳ chuyển phôi tươi. Tuy nhiên, kết quả thai lâm sàng của việc chuyển phôi nang D5 và D6 không nhất quán trong chu kỳ chuyển phôi trữ (frozen-thawed embryo transfer – FET). Hầu hết các nghiên cứu đã so sánh kết quả của phôi nang D5 và D6 có chất lượng tương tự hoặc phôi nang có chất lượng khác nhau trong cùng một ngày phát triển. Tuy nhiên, kết quả lâm sàng của phôi nang chất lượng kém D5 so với phôi nang chất lượng tốt D6 chưa được nghiên cứu. Trong thực tế, một số bệnh nhân chỉ có phôi nang chất lượng kém D5 và phôi nang chất lượng tốt D6 và vẫn chưa rõ lựa chọn nào tốt hơn khi lựa chọn phôi để chuyển. Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã thực hiện phân tích hồi cứu để so sánh kết quả lâm sàng giữa phôi nang chất lượng kém D5 với phôi nang chất lượng tốt D6 trong chu kỳ FET.
Phương pháp: Nghiên cứu này phân tích 462 chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) được thực hiện tại trung tâm Y học Sinh sản, bệnh viện Đa khoa Quảng Đông, Trung Quốc từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2019. Các chu kỳ được chia thành hai nhóm: nhóm chuyển phôi nang chất lượng kém ngày 5 (nhóm A) và nhóm chuyển phôi nang chất lượng tốt ngày 6 (nhóm B). Phôi được nuôi cấy trong tủ ấm ở 6% CO2 , 5% O2 và 370C. Sau đó đánh giá theo tiêu chí Gardner, phôi nang có độ nở rộng từ 4 - 6 với ICM và TE là BC hoặc CB được xác định là phôi nang chất lượng kém, và phôi nang chất lượng tốt là AA, AB, BA hoặc BB. Tất cả các phôi được trữ lại để chuẩn bị nội mạc tử cung rồi tiến hành chuyển vào tử cung.
Kết quả: Trong nghiên cứu này, 133 chu kỳ ở nhóm A và 329 chu kỳ ở nhóm B được phân tích. Trong đó, các yếu tố như tuổi mẹ, nguyên nhân gây vô sinh giữa hai nhóm không có khác biệt có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm A và B tương ứng, tỷ lệ có thai lâm sàng (61,65% so với 67,17%, p = 0,258), tỷ lệ làm tổ (61,65% so với 67,17%, p = 0,258) và tỷ lệ trẻ sinh sống (69,51% so với 77,83%, p = 0,134) cho thấy không có sự khác biệt đáng kể.
Tóm lại, kết quả lâm sàng của phôi nang chất lượng kém ngày 5 và phôi nang chất lượng tốt ngày 6 là tương tự nhau. Điều này cho thấy tốc độ phát triển của phôi có thể quan trọng hơn chất lượng phôi trong việc dự đoán kết quả lâm sàng của việc chuyển đơn phôi nang trong chu kỳ FET.
Nguồn: Zhang, Guang-li, et al. "The pregnancy outcomes of day-5 poor-quality and day-6 high-quality blastocysts in single blastocyst transfer cycles." Clinical and Experimental Reproductive Medicine 50.1 (2023): 63.
Trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm, chuyển phôi có thể được thực hiện ở giai đoạn phôi phân chia hoặc phôi nang. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ làm tổ ở nhóm phôi nang cao hơn so với nhóm phôi phân chia. Ngày nay, chuyển đơn phôi nang đang là xu hướng tại các đơn vị hỗ trợ sinh sản do các điều kiện nuôi cấy phôi nang được cải thiện và việc giảm nguy cơ đa thai. Thông thường, trong nuôi cấy phôi in vitro thì phôi sẽ phát triển thành phôi nang vào ngày thứ 5 (D5) sau khi thụ tinh, nhưng một số phôi phát triển chậm hơn và phát triển thành phôi nang vào ngày thứ 6 (D6) hoặc muộn hơn. Kết quả mang thai của phôi nang chất lượng tốt cao hơn đáng kể so với phôi nang chất lượng kém, trong khi hình thái phôi nang chất lượng kém có liên quan đến tỷ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate – CPR) và tỷ lệ sinh sống (live birth rate – LBR) thấp hơn đáng kể. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chuyển phôi nang D5 có CPR cao hơn so với chuyển phôi nang D6 trong chu kỳ chuyển phôi tươi. Tuy nhiên, kết quả thai lâm sàng của việc chuyển phôi nang D5 và D6 không nhất quán trong chu kỳ chuyển phôi trữ (frozen-thawed embryo transfer – FET). Hầu hết các nghiên cứu đã so sánh kết quả của phôi nang D5 và D6 có chất lượng tương tự hoặc phôi nang có chất lượng khác nhau trong cùng một ngày phát triển. Tuy nhiên, kết quả lâm sàng của phôi nang chất lượng kém D5 so với phôi nang chất lượng tốt D6 chưa được nghiên cứu. Trong thực tế, một số bệnh nhân chỉ có phôi nang chất lượng kém D5 và phôi nang chất lượng tốt D6 và vẫn chưa rõ lựa chọn nào tốt hơn khi lựa chọn phôi để chuyển. Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã thực hiện phân tích hồi cứu để so sánh kết quả lâm sàng giữa phôi nang chất lượng kém D5 với phôi nang chất lượng tốt D6 trong chu kỳ FET.
Phương pháp: Nghiên cứu này phân tích 462 chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) được thực hiện tại trung tâm Y học Sinh sản, bệnh viện Đa khoa Quảng Đông, Trung Quốc từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2019. Các chu kỳ được chia thành hai nhóm: nhóm chuyển phôi nang chất lượng kém ngày 5 (nhóm A) và nhóm chuyển phôi nang chất lượng tốt ngày 6 (nhóm B). Phôi được nuôi cấy trong tủ ấm ở 6% CO2 , 5% O2 và 370C. Sau đó đánh giá theo tiêu chí Gardner, phôi nang có độ nở rộng từ 4 - 6 với ICM và TE là BC hoặc CB được xác định là phôi nang chất lượng kém, và phôi nang chất lượng tốt là AA, AB, BA hoặc BB. Tất cả các phôi được trữ lại để chuẩn bị nội mạc tử cung rồi tiến hành chuyển vào tử cung.
Kết quả: Trong nghiên cứu này, 133 chu kỳ ở nhóm A và 329 chu kỳ ở nhóm B được phân tích. Trong đó, các yếu tố như tuổi mẹ, nguyên nhân gây vô sinh giữa hai nhóm không có khác biệt có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm A và B tương ứng, tỷ lệ có thai lâm sàng (61,65% so với 67,17%, p = 0,258), tỷ lệ làm tổ (61,65% so với 67,17%, p = 0,258) và tỷ lệ trẻ sinh sống (69,51% so với 77,83%, p = 0,134) cho thấy không có sự khác biệt đáng kể.
Tóm lại, kết quả lâm sàng của phôi nang chất lượng kém ngày 5 và phôi nang chất lượng tốt ngày 6 là tương tự nhau. Điều này cho thấy tốc độ phát triển của phôi có thể quan trọng hơn chất lượng phôi trong việc dự đoán kết quả lâm sàng của việc chuyển đơn phôi nang trong chu kỳ FET.
Nguồn: Zhang, Guang-li, et al. "The pregnancy outcomes of day-5 poor-quality and day-6 high-quality blastocysts in single blastocyst transfer cycles." Clinical and Experimental Reproductive Medicine 50.1 (2023): 63.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đánh giá khả năng chứa máu kinh của các sản phẩm vệ sinh kinh nguyệt hiện đại - Ngày đăng: 07-09-2023
Các yếu tố liên quan đến dự trữ buồng trứng kém ở phụ nữ trẻ tuổi vô sinh: Một nghiên cứu đoàn hệ tại bệnh viện - Ngày đăng: 07-09-2023
Điều trị gonadotropin trước khi thực hiện micro-TESE trong vô tinh không tắc nghẽn: một nghiên cứu đoàn hệ từ một trung tâm - Ngày đăng: 18-08-2023
Tỷ lệ sinh sống của trữ noãn tích luỹ ở nhóm bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 18-08-2023
Kết quả của trữ noãn xã hội: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 18-08-2023
Tác động của Duloxetine đối với khả năng sinh sản của nam giới: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 16-08-2023
Mối liên quan giữa nồng độ progesterone huyết thanh và tỷ lệ trẻ sinh sống ở bệnh nhân Lạc nội mạc tử cung thực hiện chuyển phôi trữ bằng phác đồ nội tiết ngoại sinh: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 16-08-2023
Tế bào hạt của bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém biểu hiện đoạn Telomere ngắn hơn bình thường - Ngày đăng: 08-08-2023
Mối liên hệ giữa mức độ thừa cân đến tỷ lệ phôi nguyên bội Ở phụ nữ thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 08-08-2023
Khởi phát trưởng thành noãn với hCG, GnRHa hay dual trigger? Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở phụ nữ lớn tuổi điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Ảnh hưởng của sự phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK