Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 18-08-2023 10:25am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH Chu Khánh Linh – IVF Vạn Hạnh

Các bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng (diminished ovarian reserve – DOR) có tiên lượng kém trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Họ cần có nhiều noãn để tối ưu hóa cơ hội mang thai. Do đó, ý tưởng tạo ra một lượng lớn noãn bằng cách tích lũy các noãn trưởng thành (MII) với nhiều chu kỳ kích thích buồng trứng đã được đề xuất. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng noãn trữ đông mang lại kết quả sinh sống tương đương với việc sử dụng noãn tươi. Tuy nhiên, phân tích đoàn hệ mở rộng đã chỉ ra kết quả sinh sống thấp hơn khi sử dụng noãn trữ của người hiến tặng thay vì noãn tươi của người hiến tặng. Ngoài ra, những thay đổi trong biểu hiện gen và giảm hàm lượng DNA ty thể trong noãn trữ và rã đông đã được tìm thấy. Do đó, mục tiêu nghiên cứu là đánh giá xem sự tích lũy noãn trữ lạnh có cải thiện tỷ lệ sinh sống ở nhóm bệnh nhân DOR hay không.
 
Phương pháp
Một nghiên cứu hồi cứu bao gồm 440 phụ nữ DOR đáp ứng các nhóm phân loại Poseidon 3 và 4, được xác định AMH < 1,2 ng/ml hoặc AFC < 5, từ ngày 1 tháng 1 năm 2014, đến ngày 31 tháng 12 năm 2019. Bệnh nhân chia làm 2 nhóm: nhóm 1- DOR-Accu tích luỹ noãn trữ, nhóm 2- DOR-Fresh noãn tươi. Kết quả là tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi, tỷ lệ sinh sống cộng dồn, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sẩy thai.
 
Kết quả
211 bệnh nhân nhóm DOR-Accu ( có tuổi mẹ: 39,29 ± 4,23 tuổi, AMH: 0,54 ± 0,35 ng/ml) và 229 bệnh nhân nhóm DOR-Fresh (tuổi mẹ: 38,07 ± 3,77 tuổi, AMH: 0,72 ± 0,32 ng/ml).
- Tỷ lệ thai lâm sàng: nhóm DOR-Accu cũng tương tự như trong nhóm DOR-Fresh (27,5% so với 31,0%, p = 0,418)
- Tỷ lệ sẩy thai: nhóm DOR-Accu cao hơn về mặt thống kê (41,4% so với 14,1%, p = 0,001)
- Tỷ lệ sinh sống trên mỗi chuyển phôi thấp hơn về mặt thống kê (15,2% so với 26,2%, p < 0,001) trong nhóm DOR-Accu. Nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ sinh sống cộng dồn giữa các nhóm (20,4% so với 27,5%, p = 0,081).
- Số lượng noãn MII tích lũy ≥ 15 cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng trong nhóm DOR-Accu (48,4% so với 31,0%, p = 0,054). Tuy nhiên, tỷ lệ sẩy thai cao hơn (40,0% so với 14,1%, p = 0,03) dẫn đến tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi là tương tự nhau(29,0% so với 26,2%, p = 0,738).
 
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy rằng những phụ nữ giảm dự trữ buồng trứng sử dụng chiến lược tích lũy noãn nhằm thu được nhiều phôi để chuyển có hiệu quả kém hơn so với các chu kỳ IVF sử dụng noãn tươi ngay cả khi số lượng noãn tích luỹ >15 noãn. Tích lũy noãn trữ không cải thiện được tỷ lệ trẻ sinh sống, trong khi tỷ lệ sẩy thai cao hơn dẫn đến tỷ lệ sinh sống thấp hơn. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn để đưa ra được chiến lược phù hợp cho bệnh nhân DOR thay vì tích lũy noãn trữ đông như hiện nay.
 
Nguồn: Lee KS, Lin MH, Hwu YM, Yang JH, Lee RK. The live birth rate of vitrified oocyte accumulation for managing diminished ovarian reserve: a retrospective cohort study. J Ovarian Res. 2023 Mar 3;16(1):49. doi: 10.1186/s13048-023-01128-y. PMID: 36869354; PMCID: PMC9983267.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK