Tin tức
on Wednesday 16-08-2023 3:53pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS Lê Khắc Tiến
Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Nhóm Nghiên cứu Lạc nội mạc tử cung & Adenomyosis - Bệnh viện Mỹ Đức (SEAMD)
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ progesterone trong huyết thanh ở chu kỳ chuyển phôi trữ có mối tương quan với tỷ lệ làm tổ hoặc tỷ lệ thai sau chuyển phôi trữ và đưa ra khuyến cáo về nồng độ progesterone huyết thanh tối ưu cho tỷ lệ trẻ sinh sống. Ngưỡng cắt được đề cập nhiều nhất trong các nghiên cứu là 32 nmol/l (10 ng/ml). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá về mối liên quan giữa nồng độ progesterone huyết thanh và tỷ lệ trẻ sinh sống ở bệnh nhân Lạc nội mạc tử cung (LNMTC), một nhóm bệnh lý mà cơ chế liên quan mật thiết đến sự đề kháng progesterone ở nội mạc tử cung (NMTC) chính vị và lạc chỗ.
Vì vậy, nhóm nghiên cứu của tác giả Alsbjerg và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, với 262 chu kỳ chuyển phôi trữ sử dụng nội tiết ngoại sinh (HRT-FET) ở 179 phụ nữ LNMTC. Tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu là phụ nữ được chẩn đoán LNMTC thông qua phẫu thuật nội soi, hoặc được chẩn đoán trên siêu âm có hình ảnh nang LNMTC, LNMTC sâu kèm theo có thống kinh. Những bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu sẽ uống thuốc ngừa thai trước 6 tuần và ngưng 5 ngày để có kinh. Quá trình chuẩn bị NMTC được thực hiện bằng estradiol, liều 6mg/ngày, uống 1 lần duy nhất. Sau 12-19 ngày dùng estradiol, bệnh nhân được siêu âm để theo dõi, nếu độ dày NMTC ≥7 mm, bệnh nhân sẽ được mở cửa sổ làm tổ bằng cách sử dụng progesterone gel 90mg, bơm âm đạo 2 lần/ngày trong 4 ngày, sau đó bổ sung thêm progesterone tiêm bắp (50mg/ngày). Bệnh nhân được chuyển phôi ngày 5 hoặc ngày 6 vào ngày thứ 6 hoặc thứ 7 khi NMTC tiếp xúc với progesterone. Thử thai được thực hiện vào 9-11 ngày sau chuyển phôi. Xét nghiệm progesterone huyết thanh được thực hiện vào ngày thử thai, khoảng 2-4h sau khi bơm progesterone gel. Nếu bệnh nhân có thai, hỗ trợ hoàng thể được duy trì đến 10 tuần tuổi thai, sử dụng liều tương tự và progesterone tiêm bắp được duy trì đến khi siêu âm thấy túi thai trong tử cung (vào khoảng 7 – 8 tuần tuổi thai).
Kết quả nghiên cứu cho thấy ngưỡng progesterone tối ưu cho tỷ lệ trẻ sinh sống là 118 nmol/L (37,1 ng/mL). Những phụ nữ có nồng độ progesterone huyết thanh ≥118 nmol/L có tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với phụ nữ có nồng độ progesterone <118 nmol/L (51% so với 34%, p=0,01). Sự khác biệt vẫn có ý nghĩa thống kê sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu (OR 2,1, KTC 95% 1,2-3,7).
Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy bệnh nhân LNMTC được chuẩn bị NMTC để chuyển phôi trữ sử dụng phác đồ nội tiết ngoại sinh có tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn nếu nồng độ progesterone huyết thanh trong giai đoạn hoàng thể cao hơn (≥118 nmol/L) so với ngưỡng được báo cáo ở bệnh nhân không có LNMTC. Lý giải kết luận này, nhóm tác giả cho rằng nhu cầu progesterone ở nhóm bệnh nhân có LNMTC là cao hơn, có thể liên quan đến cơ chế kháng progesterone của bệnh lý này. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên đưa ra điểm cắt về nồng độ progesterone trong huyết thanh tối ưu cho tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm bệnh nhân có LNMTC thực hiện chuẩn bị NMTC chuyển phôi trữ.
Nguồn: Alsbjerg, Birgit et al. Endometriosis patients benefit from high serum progesterone in hormone replacement therapy–frozen embryo transfer cycles: a cohort study. Reproductive BioMedicine Online, Volume 46, Issue 1, 92 – 98.
Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Nhóm Nghiên cứu Lạc nội mạc tử cung & Adenomyosis - Bệnh viện Mỹ Đức (SEAMD)
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ progesterone trong huyết thanh ở chu kỳ chuyển phôi trữ có mối tương quan với tỷ lệ làm tổ hoặc tỷ lệ thai sau chuyển phôi trữ và đưa ra khuyến cáo về nồng độ progesterone huyết thanh tối ưu cho tỷ lệ trẻ sinh sống. Ngưỡng cắt được đề cập nhiều nhất trong các nghiên cứu là 32 nmol/l (10 ng/ml). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá về mối liên quan giữa nồng độ progesterone huyết thanh và tỷ lệ trẻ sinh sống ở bệnh nhân Lạc nội mạc tử cung (LNMTC), một nhóm bệnh lý mà cơ chế liên quan mật thiết đến sự đề kháng progesterone ở nội mạc tử cung (NMTC) chính vị và lạc chỗ.
Vì vậy, nhóm nghiên cứu của tác giả Alsbjerg và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, với 262 chu kỳ chuyển phôi trữ sử dụng nội tiết ngoại sinh (HRT-FET) ở 179 phụ nữ LNMTC. Tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu là phụ nữ được chẩn đoán LNMTC thông qua phẫu thuật nội soi, hoặc được chẩn đoán trên siêu âm có hình ảnh nang LNMTC, LNMTC sâu kèm theo có thống kinh. Những bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu sẽ uống thuốc ngừa thai trước 6 tuần và ngưng 5 ngày để có kinh. Quá trình chuẩn bị NMTC được thực hiện bằng estradiol, liều 6mg/ngày, uống 1 lần duy nhất. Sau 12-19 ngày dùng estradiol, bệnh nhân được siêu âm để theo dõi, nếu độ dày NMTC ≥7 mm, bệnh nhân sẽ được mở cửa sổ làm tổ bằng cách sử dụng progesterone gel 90mg, bơm âm đạo 2 lần/ngày trong 4 ngày, sau đó bổ sung thêm progesterone tiêm bắp (50mg/ngày). Bệnh nhân được chuyển phôi ngày 5 hoặc ngày 6 vào ngày thứ 6 hoặc thứ 7 khi NMTC tiếp xúc với progesterone. Thử thai được thực hiện vào 9-11 ngày sau chuyển phôi. Xét nghiệm progesterone huyết thanh được thực hiện vào ngày thử thai, khoảng 2-4h sau khi bơm progesterone gel. Nếu bệnh nhân có thai, hỗ trợ hoàng thể được duy trì đến 10 tuần tuổi thai, sử dụng liều tương tự và progesterone tiêm bắp được duy trì đến khi siêu âm thấy túi thai trong tử cung (vào khoảng 7 – 8 tuần tuổi thai).
Kết quả nghiên cứu cho thấy ngưỡng progesterone tối ưu cho tỷ lệ trẻ sinh sống là 118 nmol/L (37,1 ng/mL). Những phụ nữ có nồng độ progesterone huyết thanh ≥118 nmol/L có tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn có ý nghĩa thống kê so với phụ nữ có nồng độ progesterone <118 nmol/L (51% so với 34%, p=0,01). Sự khác biệt vẫn có ý nghĩa thống kê sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu (OR 2,1, KTC 95% 1,2-3,7).
Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy bệnh nhân LNMTC được chuẩn bị NMTC để chuyển phôi trữ sử dụng phác đồ nội tiết ngoại sinh có tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn nếu nồng độ progesterone huyết thanh trong giai đoạn hoàng thể cao hơn (≥118 nmol/L) so với ngưỡng được báo cáo ở bệnh nhân không có LNMTC. Lý giải kết luận này, nhóm tác giả cho rằng nhu cầu progesterone ở nhóm bệnh nhân có LNMTC là cao hơn, có thể liên quan đến cơ chế kháng progesterone của bệnh lý này. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên đưa ra điểm cắt về nồng độ progesterone trong huyết thanh tối ưu cho tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm bệnh nhân có LNMTC thực hiện chuẩn bị NMTC chuyển phôi trữ.
Nguồn: Alsbjerg, Birgit et al. Endometriosis patients benefit from high serum progesterone in hormone replacement therapy–frozen embryo transfer cycles: a cohort study. Reproductive BioMedicine Online, Volume 46, Issue 1, 92 – 98.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tế bào hạt của bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém biểu hiện đoạn Telomere ngắn hơn bình thường - Ngày đăng: 08-08-2023
Mối liên hệ giữa mức độ thừa cân đến tỷ lệ phôi nguyên bội Ở phụ nữ thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 08-08-2023
Khởi phát trưởng thành noãn với hCG, GnRHa hay dual trigger? Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở phụ nữ lớn tuổi điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Ảnh hưởng của sự phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Sự phân mảnh DNA của tinh trùng đo bằng SCD ảnh hưởng đến các thông số động học hình thái, tỷ lệ thụ tinh và chất lượng phôi nang trong điều trị ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Hội chứng tinh trùng đầu kim ảnh hưởng nghiêm trọng đến các thông số tinh dịch - Ngày đăng: 08-08-2023
Sự thiếu hụt ACROSIN và thất bại thụ tinh hoàn toàn ở người - Ngày đăng: 07-08-2023
So sánh ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy chuyển tiếp và môi trường nuôi cấy đơn bước trong các chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 07-08-2023
Phân lập tinh trùng bằng Felix™ vượt trội hơn so với ly tâm thang nồng độ trong việc chọn lọc các tinh trùng có phân mảnh DNA thấp - Ngày đăng: 07-08-2023
Phân lập tinh trùng bằng Felix™ vượt trội hơn so với ly tâm thang nồng độ trong việc chọn lọc các tinh trùng có phân mảnh DNA thấp - Ngày đăng: 07-08-2023
Ảnh hưởng của các chất rối loạn nội tiết (EDC) đến chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 07-08-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK