Tin tức
on Tuesday 08-08-2023 9:32am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Duy Tùng – IVFMD Tân Bình
Thừa cân béo phì là một trong những nguyên nhân gây nên những vấn đề về sức khoẻ như các bệnh về tim mạch và đặc biệt là khả năng sinh sản ở người. Nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì có thể đến từ nhiều yếu tố do di truyền, hoạt động trao đổi chất, môi trường sống, các yếu tố về kinh tế, xã hội và hành vi tiêu dùng. Béo phì còn làm tăng cao các yếu tố nguy cơ trong các thai kỳ thai tự nhiên như làm tăng nguy cơ sảy thai, thai lưu, tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, tăng đông máu, huyết áp thai kỳ, tiểu đường thai kỳ, sinh non, hay tiểu đường tuýp I ở trẻ sinh ra.
Đối với các trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm, kết quả ở nhóm bệnh nhân thừa cân béo phì thường được cho là kém hơn so với nhóm có cân nặng bình thường. Phụ nữ thừa cân thường có tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng và thai diễn tiến thấp hơn, trong khi nguy cơ về sảy thai lại tăng cao. Chưa kể đến liều kích thích buồng trứng ở nhóm bệnh nhân này thường cao hơn, khả năng bị huỷ chu kỳ điều trị cũng cao hơn do nồng độ các hormone khác biệt cùng với số lượng noãn thu nhận được ít hơn so với nhóm cân nặng bình thường.
Phụ nữ thừa cân có thể làm tăng nguy cơ tạo ra noãn có các bất thường di truyền, với nguyên nhân đến từ phản ứng viêm mạn tính, mất cân bằng hormone hay ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể, tuy nhiên các kết quả vẫn còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa tỷ lệ phôi nguyên bội và tình trạng thừa cân của người phụ nữ trong các chu kỳ thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) có thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT).
Nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu gồm 905 phụ nữ thực hiện điều trị trong 1335 chu kỳ IVF có thực hiện PGT. Những bệnh nhân này sau đó được chia vào 3 nhóm dựa trên chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI): cân nặng bình thường (BMI < 25), thừa cân (BMI từ 25-29,9) và béo phì (BMI ≥30). Ngoài tỷ lệ phôi nguyên bội ở các nhóm bệnh nhân, nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố khác bao gồm nồng độ estradiol cao nhất, số noãn chọc hút được, tỷ lệ noãn trưởng thành, tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sảy thai, thai diễn tiến và trẻ sinh sống.
Kết quả sau khi phân tích nhóm nhận thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phôi nguyên bội ở cả 3 nhóm lần lượt là 36,4%, 37,3% và 32,3% tương ứng với các nhóm cân nặng bình thường, thừa cân và béo phì. Sự khác biệt này nhỏ và không có ý nghĩa thống kê. Các yếu tố về hormone cũng như kết quả thai của ở cả 3 nhóm cũng không có sự khác biệt đáng kể.
Tóm lại, nghiên cứu này không nhận thấy mối tương quan giữa tình trạng thừa cân béo phì đến tỷ lệ phôi nguyên bội ở những phụ nữ thực hiện IVF. Những phát hiện này cho thấy béo phì không phải là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ sảy thai hay giảm tỷ lệ sinh sống ở những phụ nữ béo phì thực hiện IVF.
Nguồn: Hallisey S, Makhijani R, Thorne J, et al. The association of obesity with euploidy rates in women undergoing in vitro fertilization with preimplantation genetic testing. J Assist Reprod Genet. 2022;39(11):2521-2528. doi:10.1007/s10815-022-02624-8
Thừa cân béo phì là một trong những nguyên nhân gây nên những vấn đề về sức khoẻ như các bệnh về tim mạch và đặc biệt là khả năng sinh sản ở người. Nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì có thể đến từ nhiều yếu tố do di truyền, hoạt động trao đổi chất, môi trường sống, các yếu tố về kinh tế, xã hội và hành vi tiêu dùng. Béo phì còn làm tăng cao các yếu tố nguy cơ trong các thai kỳ thai tự nhiên như làm tăng nguy cơ sảy thai, thai lưu, tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, tăng đông máu, huyết áp thai kỳ, tiểu đường thai kỳ, sinh non, hay tiểu đường tuýp I ở trẻ sinh ra.
Đối với các trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm, kết quả ở nhóm bệnh nhân thừa cân béo phì thường được cho là kém hơn so với nhóm có cân nặng bình thường. Phụ nữ thừa cân thường có tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng và thai diễn tiến thấp hơn, trong khi nguy cơ về sảy thai lại tăng cao. Chưa kể đến liều kích thích buồng trứng ở nhóm bệnh nhân này thường cao hơn, khả năng bị huỷ chu kỳ điều trị cũng cao hơn do nồng độ các hormone khác biệt cùng với số lượng noãn thu nhận được ít hơn so với nhóm cân nặng bình thường.
Phụ nữ thừa cân có thể làm tăng nguy cơ tạo ra noãn có các bất thường di truyền, với nguyên nhân đến từ phản ứng viêm mạn tính, mất cân bằng hormone hay ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể, tuy nhiên các kết quả vẫn còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa tỷ lệ phôi nguyên bội và tình trạng thừa cân của người phụ nữ trong các chu kỳ thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) có thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing - PGT).
Nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu gồm 905 phụ nữ thực hiện điều trị trong 1335 chu kỳ IVF có thực hiện PGT. Những bệnh nhân này sau đó được chia vào 3 nhóm dựa trên chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI): cân nặng bình thường (BMI < 25), thừa cân (BMI từ 25-29,9) và béo phì (BMI ≥30). Ngoài tỷ lệ phôi nguyên bội ở các nhóm bệnh nhân, nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố khác bao gồm nồng độ estradiol cao nhất, số noãn chọc hút được, tỷ lệ noãn trưởng thành, tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sảy thai, thai diễn tiến và trẻ sinh sống.
Kết quả sau khi phân tích nhóm nhận thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phôi nguyên bội ở cả 3 nhóm lần lượt là 36,4%, 37,3% và 32,3% tương ứng với các nhóm cân nặng bình thường, thừa cân và béo phì. Sự khác biệt này nhỏ và không có ý nghĩa thống kê. Các yếu tố về hormone cũng như kết quả thai của ở cả 3 nhóm cũng không có sự khác biệt đáng kể.
Tóm lại, nghiên cứu này không nhận thấy mối tương quan giữa tình trạng thừa cân béo phì đến tỷ lệ phôi nguyên bội ở những phụ nữ thực hiện IVF. Những phát hiện này cho thấy béo phì không phải là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ sảy thai hay giảm tỷ lệ sinh sống ở những phụ nữ béo phì thực hiện IVF.
Nguồn: Hallisey S, Makhijani R, Thorne J, et al. The association of obesity with euploidy rates in women undergoing in vitro fertilization with preimplantation genetic testing. J Assist Reprod Genet. 2022;39(11):2521-2528. doi:10.1007/s10815-022-02624-8
Các tin khác cùng chuyên mục:
Khởi phát trưởng thành noãn với hCG, GnRHa hay dual trigger? Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở phụ nữ lớn tuổi điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Ảnh hưởng của sự phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Sự phân mảnh DNA của tinh trùng đo bằng SCD ảnh hưởng đến các thông số động học hình thái, tỷ lệ thụ tinh và chất lượng phôi nang trong điều trị ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Hội chứng tinh trùng đầu kim ảnh hưởng nghiêm trọng đến các thông số tinh dịch - Ngày đăng: 08-08-2023
Sự thiếu hụt ACROSIN và thất bại thụ tinh hoàn toàn ở người - Ngày đăng: 07-08-2023
So sánh ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy chuyển tiếp và môi trường nuôi cấy đơn bước trong các chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 07-08-2023
Phân lập tinh trùng bằng Felix™ vượt trội hơn so với ly tâm thang nồng độ trong việc chọn lọc các tinh trùng có phân mảnh DNA thấp - Ngày đăng: 07-08-2023
Phân lập tinh trùng bằng Felix™ vượt trội hơn so với ly tâm thang nồng độ trong việc chọn lọc các tinh trùng có phân mảnh DNA thấp - Ngày đăng: 07-08-2023
Ảnh hưởng của các chất rối loạn nội tiết (EDC) đến chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 07-08-2023
So sánh tỷ lệ mang thai giữa hai khoảng thời gian (15 phút và 30 phút) nằm bất động sau khi thực hiện IUI: Một nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 07-08-2023
Mối tương quan giữa nồng độ FSH trong huyết thanh và tỷ lệ thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn trong vô tinh không do tắc nghẽn - Ngày đăng: 07-08-2023
Những thay đổi trong phiên mã trong quá trình trưởng thành noãn in vitro ở người - Ngày đăng: 03-08-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK