Tin tức
on Friday 18-08-2023 10:24am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Chu Khánh Linh – IVF Vạn Hạnh
Trữ noãn vì những lý do phi y tế, được gọi là trữ noãn xã hội, đã nâng cao quyền tự chủ sinh sản của phụ nữ bằng cách cho phép trì hoãn khả năng sinh con và duy trì mối quan hệ sinh học với con cái trong tương lai.
Hiện nay, sự gia tăng đáng kể về số chu kỳ trữ noãn trong thập kỷ qua đã được ghi nhận. Ở Anh, chu kỳ trữ noãn đã tăng 460% từ năm 2010 đến 2016. Tương tự, mức tăng 880% và 507% trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2015 đã được báo cáo lần lượt ở Hoa Kỳ, Úc và New Zealand. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong các kỹ thuật đông lạnh giúp tăng khả năng sống và sử dụng noãn sau khi rã đông. Ngoài ra, các hiệp hội quốc tế cũng đánh giá trữ noãn là phương pháp an toàn khi điều trị vô sinh.
Kể từ đó, rất nhiều tài liệu đã được xuất bản đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của trữ noãn. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu báo cáo kết quả ở những phụ nữ quay trở lại sử dụng noãn trữ của chính họ là rất ít. Do đó, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá kết quả của việc rã đông noãn sau khi trữ noãn xã hội, và so sánh kết quả tổng quan tài liệu các nghiên cứu đã công bố nhằm cung cấp thông tin và giúp phụ nữ có quyết định sáng suốt khi lên kế hoạch trữ noãn xã hội.
Phương pháp:
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đã được thực hiện từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 3 năm 2022 với tất cả những phụ nữ trải qua trữ noãn bằng phương pháp thủy tinh hóa. Các tiêu chí loại trừ bao gồm những phụ nữ được bảo tồn khả năng sinh sản vì lý do y tế hoặc ung thư và những phụ nữ bị trữ noãn do chồng không lấy được tinh trùng ngày chọc hút noãn.
Kết quả:
Nghiên cứu bao gồm 167 phụ nữ có 184 chu kỳ trữ noãn xã hội.
Tuổi trữ trung bình là 37,1 và trung bình 9,5 noãn được trữ mỗi lần chọc hút.
Tổng cộng, 16% phụ nữ quay lại sử dụng noãn của họ.
- Tỷ lệ sống sau rã trung bình là 74% với tỷ lệ sống của noãn là 68% ở phụ nữ dưới 38 tuổi và 81% ở phụ nữ từ 38 tuổi trở lên, cho thấy tuổi không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của noãn rã đông (p=0,73).
- Tỷ lệ thụ tinh trung bình là 67% và phân bố theo độ tuổi cho thấy tỷ lệ thụ tinh là 75% đối với phụ nữ dưới 38 tuổi, 59% đối với phụ nữ trên 38 tuổi.
- Tỷ lệ mang thai ở mỗi lần chuyển phôi là 48% và tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi là 35%. Phân bố theo độ tuổi cho thấy tỷ lệ mang thai là 56% ở phụ nữ dưới 38 tuổi và 29% ở phụ nữ từ 38 tuổi trở lên. Tỷ lệ sinh sống là 38% ở phụ nữ dưới 38 tuổi và 29% ở phụ nữ từ 38 tuổi trở lên.
Lưu ý: nếu nhiều hơn 15 noãn được rã đông thì không phân biệt nhóm tuổi, tỷ lệ mang thai là 64% trên mỗi bệnh nhân với tỷ lệ sinh sống 45% so với dưới 15 noãn với tỷ lệ có thai là 27% và tỷ lệ sinh sống là 13%.
Kết luận
Mặc dù chu kỳ trữ noãn xã hội tăng nhanh nhưng tỷ lệ sử dụng vẫn còn thấp. Khả năng mang thai và tỷ lệ sinh sống sau khi rã đông sẽ tốt hơn nếu noãn được trữ ở độ tuổi trẻ hơn và có 15 noãn trữ trở lên cho mỗi bệnh nhân. Nhóm tác giả tin rằng những kết quả này sẽ rất quan trọng đối với cả bác sĩ và bệnh nhân để giúp hướng dẫn họ tư vấn cá nhân và cung cấp những kỳ vọng thực tế cũng như thông tin đầy đủ cho bệnh nhân bắt đầu thực hiện trữ noãn xã hội.
Nguồn: Kakkar P, Geary J, Stockburger T, Kaffel A, Kopeika J, El-Toukhy T. Outcomes of Social Egg Freezing: A Cohort Study and a Comprehensive Literature Review. J Clin Med. 2023 Jun 21;12(13):4182. doi: 10.3390/jcm12134182. PMID: 37445218; PMCID: PMC10342811.
Trữ noãn vì những lý do phi y tế, được gọi là trữ noãn xã hội, đã nâng cao quyền tự chủ sinh sản của phụ nữ bằng cách cho phép trì hoãn khả năng sinh con và duy trì mối quan hệ sinh học với con cái trong tương lai.
Hiện nay, sự gia tăng đáng kể về số chu kỳ trữ noãn trong thập kỷ qua đã được ghi nhận. Ở Anh, chu kỳ trữ noãn đã tăng 460% từ năm 2010 đến 2016. Tương tự, mức tăng 880% và 507% trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2015 đã được báo cáo lần lượt ở Hoa Kỳ, Úc và New Zealand. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong các kỹ thuật đông lạnh giúp tăng khả năng sống và sử dụng noãn sau khi rã đông. Ngoài ra, các hiệp hội quốc tế cũng đánh giá trữ noãn là phương pháp an toàn khi điều trị vô sinh.
Kể từ đó, rất nhiều tài liệu đã được xuất bản đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của trữ noãn. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu báo cáo kết quả ở những phụ nữ quay trở lại sử dụng noãn trữ của chính họ là rất ít. Do đó, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá kết quả của việc rã đông noãn sau khi trữ noãn xã hội, và so sánh kết quả tổng quan tài liệu các nghiên cứu đã công bố nhằm cung cấp thông tin và giúp phụ nữ có quyết định sáng suốt khi lên kế hoạch trữ noãn xã hội.
Phương pháp:
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đã được thực hiện từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 3 năm 2022 với tất cả những phụ nữ trải qua trữ noãn bằng phương pháp thủy tinh hóa. Các tiêu chí loại trừ bao gồm những phụ nữ được bảo tồn khả năng sinh sản vì lý do y tế hoặc ung thư và những phụ nữ bị trữ noãn do chồng không lấy được tinh trùng ngày chọc hút noãn.
Kết quả:
Nghiên cứu bao gồm 167 phụ nữ có 184 chu kỳ trữ noãn xã hội.
Tuổi trữ trung bình là 37,1 và trung bình 9,5 noãn được trữ mỗi lần chọc hút.
Tổng cộng, 16% phụ nữ quay lại sử dụng noãn của họ.
- Tỷ lệ sống sau rã trung bình là 74% với tỷ lệ sống của noãn là 68% ở phụ nữ dưới 38 tuổi và 81% ở phụ nữ từ 38 tuổi trở lên, cho thấy tuổi không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của noãn rã đông (p=0,73).
- Tỷ lệ thụ tinh trung bình là 67% và phân bố theo độ tuổi cho thấy tỷ lệ thụ tinh là 75% đối với phụ nữ dưới 38 tuổi, 59% đối với phụ nữ trên 38 tuổi.
- Tỷ lệ mang thai ở mỗi lần chuyển phôi là 48% và tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi là 35%. Phân bố theo độ tuổi cho thấy tỷ lệ mang thai là 56% ở phụ nữ dưới 38 tuổi và 29% ở phụ nữ từ 38 tuổi trở lên. Tỷ lệ sinh sống là 38% ở phụ nữ dưới 38 tuổi và 29% ở phụ nữ từ 38 tuổi trở lên.
Lưu ý: nếu nhiều hơn 15 noãn được rã đông thì không phân biệt nhóm tuổi, tỷ lệ mang thai là 64% trên mỗi bệnh nhân với tỷ lệ sinh sống 45% so với dưới 15 noãn với tỷ lệ có thai là 27% và tỷ lệ sinh sống là 13%.
Kết luận
Mặc dù chu kỳ trữ noãn xã hội tăng nhanh nhưng tỷ lệ sử dụng vẫn còn thấp. Khả năng mang thai và tỷ lệ sinh sống sau khi rã đông sẽ tốt hơn nếu noãn được trữ ở độ tuổi trẻ hơn và có 15 noãn trữ trở lên cho mỗi bệnh nhân. Nhóm tác giả tin rằng những kết quả này sẽ rất quan trọng đối với cả bác sĩ và bệnh nhân để giúp hướng dẫn họ tư vấn cá nhân và cung cấp những kỳ vọng thực tế cũng như thông tin đầy đủ cho bệnh nhân bắt đầu thực hiện trữ noãn xã hội.
Nguồn: Kakkar P, Geary J, Stockburger T, Kaffel A, Kopeika J, El-Toukhy T. Outcomes of Social Egg Freezing: A Cohort Study and a Comprehensive Literature Review. J Clin Med. 2023 Jun 21;12(13):4182. doi: 10.3390/jcm12134182. PMID: 37445218; PMCID: PMC10342811.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tác động của Duloxetine đối với khả năng sinh sản của nam giới: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 16-08-2023
Mối liên quan giữa nồng độ progesterone huyết thanh và tỷ lệ trẻ sinh sống ở bệnh nhân Lạc nội mạc tử cung thực hiện chuyển phôi trữ bằng phác đồ nội tiết ngoại sinh: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 16-08-2023
Tế bào hạt của bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém biểu hiện đoạn Telomere ngắn hơn bình thường - Ngày đăng: 08-08-2023
Mối liên hệ giữa mức độ thừa cân đến tỷ lệ phôi nguyên bội Ở phụ nữ thực hiện sàng lọc di truyền tiền làm tổ trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 08-08-2023
Khởi phát trưởng thành noãn với hCG, GnRHa hay dual trigger? Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở phụ nữ lớn tuổi điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Ảnh hưởng của sự phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Sự phân mảnh DNA của tinh trùng đo bằng SCD ảnh hưởng đến các thông số động học hình thái, tỷ lệ thụ tinh và chất lượng phôi nang trong điều trị ICSI - Ngày đăng: 08-08-2023
Hội chứng tinh trùng đầu kim ảnh hưởng nghiêm trọng đến các thông số tinh dịch - Ngày đăng: 08-08-2023
Sự thiếu hụt ACROSIN và thất bại thụ tinh hoàn toàn ở người - Ngày đăng: 07-08-2023
So sánh ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy chuyển tiếp và môi trường nuôi cấy đơn bước trong các chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 07-08-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK