Tin tức
on Sunday 23-07-2023 10:29pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Nguyễn Thị Minh Phượng, IVFMD Tân Bình
Hiện nay, tinh trùng ở bệnh nhân vô tinh không do tắc (Non-obstructive azoospermia – NOA) được thu nhận chủ yếu bằng phương pháp TESE, tuy nhiên số lượng tinh trùng thu hồi lại rất ít. Mặc dù vậy, đây lại là nguồn tinh trùng quý giá cho bệnh nhân vô tinh. Sự thành công của chu kỳ hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) sử dụng tinh trùng tinh trùng từ TESE rất khó dự đoán. Nếu thất bại đồng nghĩa với việc bệnh nhân phải thục hiện thủ thuật nhiều lần gây khó chịu và đau đớn, tăng nguy cơ viêm tinh hoàn, phá vỡ hàng rào máu-tinh hoàn, một số trường hợp cơ thể sản sinh kháng thể kháng tinh trùng gây ảnh hưởng tới bệnh nhân.
Sự ra đời của đông lạnh tinh trùng giúp hạn chế được nguy cơ từ việc bệnh nhân phải làm thủ thuật nhiều lần. Tuy nhiên, do tinh trùng chưa trưởng thành có màng tế bào và DNA chưa được hoàn thiện nên giảm tỷ lệ thu hồi khi thực hiện các phương pháp đông lạnh truyền thống. Để giải quyết vấn đề trên, một số vật chứa đã được phát triển như: màng zona rỗng, micro‐straw, ICSI needle, cryotop, cellsleeper, cryopiece. Tuy nhiên, hiệu quả vẫn chưa được tối ưu, cần phải phát triển dụng cụ được phát triển đặc biệt cho nhóm tinh trùng số lượng ít.
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu lựa chọn động lạnh ống sinh tinh, phát triển dụng cụ đông lạnh cryopiece mới. Để đánh giá hiệu quả của vật chứa mới này, khả năng di động, tỷ lệ sống, mức độ phân mảnh DNA tinh trùng trước và sau đông lạnh đã được đánh giá.
Thiết kế nghiên cứu:
Dụng cụ trữ: Cryopiece mới bao gồm: một ống chứa (ống dùng trong đông lạnh tinh trùng thông thường, thể tích 1,8 ml), 5 lá polypropylene (không độc, dài 1 cm rộng 0,5 cm) được gắn mảnh xốp polyvinyl clorua (PVC) đánh dấu mẫu bằng chỉ vô trùng. Lá polypropylene có thể thiết kế độc lập bên ngoài phòng phôi học, khử trùng bằng phương pháp khử trùng bằng hơi nước áp suất cao (áp suất: 147 kpa, nhiệt độ: 121°C trong 20 phút).
Chuẩn bị mẫu: 40 mẫu mô tinh hoàn từ 35 bệnh nhân vô tinh do tắc (obstructive azoospermia – OA), 4 bệnh nhân vô tinh không do tắc (NOA) và một bệnh nhân giảm sinh tinh do tuổi cao tại bệnh viện Phụ sản và Nhi tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Tổng thể tích thu nhận của mẫu mô tinh hoàn dao động từ 4 đến 25 mm3, 35 mẫu từ bệnh nhân OA được sử dụng để thực hiện tiếp thí nghiệm. Mẫu sau khi thu nhận được chuyển vào các giọt môi trường G‐GAMETE™ 100 ul, rửa kỹ.
Quy trình thực hiện: Chia làm 2 phần
Kết quả thu nhận được:
Vật chứa cryopiece mới mà nhóm nghiên cứu cho thấy phù hợp với việc trữ lạnh huyền phù tinh trùng và các trường hợp trữ lạnh các ống sinh tinh và dễ dàng sử dụng cho tất cả các trung tâm. Bên cạnh đó, việc chia nhỏ mẫu vào các lá polypropylene phù hợp cho việc sử dụng cho nhiều chu kỳ khác nhau, đây cũng là nghiên cứu đề xuất gắn các thẻ bọt giúp nhập biết các mẫu trong dụng cụ chứa. Một điểm đặc biệt của phương pháp này chính là thời gian rã đông mẫu nhanh chóng (ngắn hơn 5 phút so với straw). Việc lựa chọn đông lạnh ống sinh tinh cho thấy lợi ích, tinh trùng không bị thất thoát trong quá trình đông lạnh.
Tóm lại, thiết bị cryopiece mới này dễ thực hiện, có thể đông lạnh tinh trùng số lượng ít hoặc các ống sinh tinh, cải thiện việc sử dụng mẫu đặc biệt trong các trường hợp vô tinh do tắc.
Nguồn: Lin, F., & Zheng, B. (2022). Cryopreservation of human spermatozoa by freezing testicular seminiferous tubule with novel cryopiece. Andrologia, 54(3), e14356.
Hiện nay, tinh trùng ở bệnh nhân vô tinh không do tắc (Non-obstructive azoospermia – NOA) được thu nhận chủ yếu bằng phương pháp TESE, tuy nhiên số lượng tinh trùng thu hồi lại rất ít. Mặc dù vậy, đây lại là nguồn tinh trùng quý giá cho bệnh nhân vô tinh. Sự thành công của chu kỳ hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) sử dụng tinh trùng tinh trùng từ TESE rất khó dự đoán. Nếu thất bại đồng nghĩa với việc bệnh nhân phải thục hiện thủ thuật nhiều lần gây khó chịu và đau đớn, tăng nguy cơ viêm tinh hoàn, phá vỡ hàng rào máu-tinh hoàn, một số trường hợp cơ thể sản sinh kháng thể kháng tinh trùng gây ảnh hưởng tới bệnh nhân.
Sự ra đời của đông lạnh tinh trùng giúp hạn chế được nguy cơ từ việc bệnh nhân phải làm thủ thuật nhiều lần. Tuy nhiên, do tinh trùng chưa trưởng thành có màng tế bào và DNA chưa được hoàn thiện nên giảm tỷ lệ thu hồi khi thực hiện các phương pháp đông lạnh truyền thống. Để giải quyết vấn đề trên, một số vật chứa đã được phát triển như: màng zona rỗng, micro‐straw, ICSI needle, cryotop, cellsleeper, cryopiece. Tuy nhiên, hiệu quả vẫn chưa được tối ưu, cần phải phát triển dụng cụ được phát triển đặc biệt cho nhóm tinh trùng số lượng ít.
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu lựa chọn động lạnh ống sinh tinh, phát triển dụng cụ đông lạnh cryopiece mới. Để đánh giá hiệu quả của vật chứa mới này, khả năng di động, tỷ lệ sống, mức độ phân mảnh DNA tinh trùng trước và sau đông lạnh đã được đánh giá.
Thiết kế nghiên cứu:
Dụng cụ trữ: Cryopiece mới bao gồm: một ống chứa (ống dùng trong đông lạnh tinh trùng thông thường, thể tích 1,8 ml), 5 lá polypropylene (không độc, dài 1 cm rộng 0,5 cm) được gắn mảnh xốp polyvinyl clorua (PVC) đánh dấu mẫu bằng chỉ vô trùng. Lá polypropylene có thể thiết kế độc lập bên ngoài phòng phôi học, khử trùng bằng phương pháp khử trùng bằng hơi nước áp suất cao (áp suất: 147 kpa, nhiệt độ: 121°C trong 20 phút).
Chuẩn bị mẫu: 40 mẫu mô tinh hoàn từ 35 bệnh nhân vô tinh do tắc (obstructive azoospermia – OA), 4 bệnh nhân vô tinh không do tắc (NOA) và một bệnh nhân giảm sinh tinh do tuổi cao tại bệnh viện Phụ sản và Nhi tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Tổng thể tích thu nhận của mẫu mô tinh hoàn dao động từ 4 đến 25 mm3, 35 mẫu từ bệnh nhân OA được sử dụng để thực hiện tiếp thí nghiệm. Mẫu sau khi thu nhận được chuyển vào các giọt môi trường G‐GAMETE™ 100 ul, rửa kỹ.
Quy trình thực hiện: Chia làm 2 phần
- Đông lạnh ống sinh tinh (G1): ống sinh tinh thu nhận sẽ được tiếp xúc với môi trường đông lạnh trong 15 phút ở nhiệt độ thường, sau đó được load lên lá polypropylene (thể tích dung dịch: 20ul và thể tích ống sinh tinh được bảo quản: 0,4 đến 2,5 mm3), sau đó mẫu được hạ nhiệt độ bằng cách cho tiếp xúc với hơi nitơ lỏng (cao hơn 4 cm so với mức nitơ lỏng, −120℃) trong 10 phút, cuối cùng chuyển lá polypropylene vào ống chứa (có sẵn nito), lưu trữ trong nito lỏng ít nhất 1 tuần.
- Phần còn lại sẽ được xé nhuyễn, ly tâm, thu 150 ul và huyền phù. Tiếp tục chia thành nhóm: đánh giá các thông số trước trữ của các mẫu, đông lạnh huyền phù tinh trùng thu được bằng Cryopiece mới (G2) và đông lạnh huyền phù tinh trùng bằng straw (G3)
- Mỗi nhóm (G1) và (G2) bao gồm 5 lá polypropylene.
Kết quả thu nhận được:
- Các chỉ số được đánh giá giữa nhóm G1 và G2 không có sự khác biệt
- Mức độ phân mảnh DNA tinh trùng thấp hơn ở nhóm G2 so với G3 (20,27 ± 5,40 so với 23,55 ± 6,02; p = 0,004).
- Tất cả mẫu thuộc nhóm G1 đều tìm thấy tinh trùng sau rã đông, tuy nhiên 2 mẫu ở nhóm G2 và 1 mẫu ở nhóm G3 lại không tìm thấy tinh trùng sau rã đông.
Vật chứa cryopiece mới mà nhóm nghiên cứu cho thấy phù hợp với việc trữ lạnh huyền phù tinh trùng và các trường hợp trữ lạnh các ống sinh tinh và dễ dàng sử dụng cho tất cả các trung tâm. Bên cạnh đó, việc chia nhỏ mẫu vào các lá polypropylene phù hợp cho việc sử dụng cho nhiều chu kỳ khác nhau, đây cũng là nghiên cứu đề xuất gắn các thẻ bọt giúp nhập biết các mẫu trong dụng cụ chứa. Một điểm đặc biệt của phương pháp này chính là thời gian rã đông mẫu nhanh chóng (ngắn hơn 5 phút so với straw). Việc lựa chọn đông lạnh ống sinh tinh cho thấy lợi ích, tinh trùng không bị thất thoát trong quá trình đông lạnh.
Tóm lại, thiết bị cryopiece mới này dễ thực hiện, có thể đông lạnh tinh trùng số lượng ít hoặc các ống sinh tinh, cải thiện việc sử dụng mẫu đặc biệt trong các trường hợp vô tinh do tắc.
Nguồn: Lin, F., & Zheng, B. (2022). Cryopreservation of human spermatozoa by freezing testicular seminiferous tubule with novel cryopiece. Andrologia, 54(3), e14356.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Rescue ICSI 1 ngày sau ICSI: Ngăn tình trạng thất bại thụ tinh hoàn toàn sau IVF cổ điển và mang lại tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi chuyển phôi nang trữ lạnh - Ngày đăng: 23-07-2023
Không tìm thấy DNA trong dịch khoang phôi liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn ở cả các ca có/không thực hiện PGT-A - Ngày đăng: 23-07-2023
Sự phức tạp của bộ gen phôi người – Các tế bào bất thường nhiễm sắc thể sẽ bị loại khỏi sự phát triển phôi thai - Ngày đăng: 23-07-2023
Nghiên cứu mối tương quan giữa các thông số tinh dịch đồ và tỷ lệ lệch bội của phôi trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ về lệch bội nhiễm sắc thể (PGT-A) - Ngày đăng: 21-07-2023
Sinh thiết phôi lại có nên được cân nhắc là một chiến lược thường quy để tăng số lượng phôi có thể sử dụng để chuyển không? - Ngày đăng: 21-07-2023
Thừa cân, béo phì và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 21-07-2023
Một số đột biến gen liên quan đến thất bại thụ tinh sau IVF/ICSI - Ngày đăng: 21-07-2023
Ảnh hưởng của sự phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả ICSI tùy thuộc vào chất lượng noãn - Ngày đăng: 21-07-2023
Giảm dự trữ buồng trứng là yếu tố nguy cơ của tiền sản giật và giảm tưới máu nhau thai - Ngày đăng: 12-07-2023
Tuổi của người cha trên 50 tuổi làm giảm kết quả thành công của công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART): Một phân tích hồi cứu đơn trung tâm - Ngày đăng: 12-07-2023
Lợi ích của trehalose và gentiobiose đối với đông lạnh tinh trùng người - Ngày đăng: 12-07-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK