Tin tức
on Friday 21-07-2023 1:47am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Nhật Ánh Dương - IVFMD Tân Bình
Giới thiệu
Thất bại thụ tinh là một vấn đề vô cùng nan giải trong điều trị IVF. Mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể về tỷ lệ thụ tinh nhờ vào sự ra đời của kỹ thuật ICSI, nhưng vẫn còn khoảng 1-5% trường hợp thất bại thụ tinh hoàn toàn mà không rõ nguyên nhân.
Việc xác định các dạng đột biến gen là rất quan trọng không chỉ để nắm rõ được cơ chế gây thất bại thụ tinh ở cấp độ phân tử mà còn giúp trong việc điều trị và chẩn đoán cho bệnh nhân. Những tiến bộ gần đây trong kỹ thuật sinh học phân tử đã thúc đẩy mạnh mẽ việc xác định các gen chịu trách nhiệm cho quá trình thụ tinh cũng như xác định các gen gây bệnh liên quan đến sự thất bại thụ tinh ở một số trường hợp.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tập trung vào các đột biến gen gây thất bại thụ tinh trong các chu kỳ IVF/ICSI, cũng như cung cấp thêm những thông tin hữu ích và kịp thời về nguyên nhân di truyền và dấu ấn sinh học gây thất bại thụ tinh.
Thiết kế nghiên cứu:
Tổng quan này phân tích dữ liệu từ tất cả các nghiên cứu được xuất bản cho đến 12/2021 trên PubMed, tổng cộng có 669 nghiên cứu. Có 83 nghiên cứu đạt tiêu chuẩn nhận loại, trong đó có 28 bài đáp ứng các tiêu chí quan trọng để đưa vào đánh giá. Bài tổng quan hệ thống chọn tập trung các nghiên cứu thảo luận về các đột biến gen cụ thể liên quan đến thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh trong điều trị IVF/ICSI và cung cấp bằng chứng thuyết phục về vai trò của các gen này trong các kiểu hình tương ứng.
Kết quả:
Dữ liệu nghiên cứu thu được từ giải trình tự toàn bộ bộ gen (whole exome sequencing – WES) và giải trình tự Sanger ở những bệnh nhân mang các đột biến gen gây ra tình trạng thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh sau khi thực hiện IVF/ICSI. Phát hiện được các dạng đột biến gen gây ra tình trạng trên:
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy đột biến gen WEE2 có thể dẫn đến thất bại trong quá trình thụ tinh và vô sinh ở nữ giới. Cho đến nay, 8 nghiên cứu đã báo cáo có tổng cộng 27 dạng đột biến WEE2 ở những bệnh nhân thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh (gồm 12 đột biến sai nghĩa, 10 đột biến lệch khung, 3 đột biến ở vị trí nối và 2 đột biến vô nghĩa). Những đột biến này tuân theo kiểu di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường và được chứng minh là bị cắt ngắn hoặc mất chức năng, do đó làm giảm nồng độ protein và làm rối loạn quá trình phosphoryl hóa WEE2. Trong tất cả các báo cáo mô tả tình trạng vô sinh nữ liên quan đến đột biến WEE2, gần như tất cả các tế bào noãn thu được từ những bệnh nhân đều không thể hình thành hai tiền nhân sau khi thực hiện IVF/ICSI. Hơn nữa, ICSI-AOA không thể cứu vãn tình trạng thụ tinh thất bại.
Hai đột biến sai nghĩa và một đột biến vô nghĩa trong gen ACTL9 đã được xác định ở ba cá thể thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh hoàn toàn sau chu kỳ IVF/ICSI. Những bệnh nhân mang đột biến ACTL9 tồn tại tỷ lệ tinh trùng đầu thuôn dài cao hơn so với những cá thể không mang đột biến. Những đột biến ACTL9 này đã được chứng minh là làm suy yếu hoặc mất khả năng tương tác với ACTL7A, dẫn đến màng acrosome bên trong tách ra khỏi nhân và hình thành cấu trúc vỏ quanh nhân lỏng lẻo.
Hai biến thể dị hợp tử trong ACTL7A đã được xác định ở một cặp vợ chồng không thụ tinh hoàn toàn sau ICSI. Đột biến này tuân theo kiểu di truyền lặn. Mô hình chuột khuyết ACTL7A cho thấy giảm biểu hiện và định vị bất thường của PLCZ1, có thể là nguyên nhân gây ra sự thất bại trong quá trình thụ tinh.
Hai đột biến dị hợp tử trong gen DNAH17 đã được xác định ở bệnh nhân vô sinh nam với khả năng di chuyển của tinh trùng giảm rõ rệt và gây ra thất bại thụ tinh hoàn toàn sau hai lần thực hiện ICSI (gồm đột biến sai nghĩa và đột biến vô nghĩa). Đột biến DNAH17 là đột biến gen lặn ảnh hưởng đến chức năng tinh trùng gây thất bại thụ tinh hoàn toàn.
Kết luận:
Với số chu kỳ IVF/ICSI ngày càng tăng mang đến cơ hội để đánh giá một cách có hệ thống về các khiếm khuyết trong quá trình thụ tinh. Bài đánh giá tổng quan này đã tóm tắt về các đột biến gen liên quan đến thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh. Trong những nghiên cứu này, một nhóm bệnh nhân mang đột biến liên quan đến tinh trùng đã mang thai thông qua ICSI với AOA. Ngược lại, những bệnh nhân mang đột biến liên quan đến noãn rất khó để mang thai, và theo báo cáo chỉ có một bệnh nhân mang đột biến ZP2 sinh con sau khi điều trị bằng ICSI. Đối với những phụ nữ mang đột biến WEE2, TUBB8, NLRP5 và TLE6, xin noãn được coi là một chiến lược hiệu quả. Những phát hiện này cung cấp thêm thông tin về nguyên nhân di truyền và dấu ấn sinh học phía sau quá trình thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh, đồng thời cung cấp một số hướng dẫn cho các bác sĩ trong việc tư vấn di truyền và tối ưu hóa các phương pháp điều trị lâm sàng.
Nguồn: Xue, Y., Cheng, X., Xiong, Y., & Li, K. (2022). Gene mutations associated with fertilization failure after in vitro fertilization/intracytoplasmic sperm injection. Frontiers in Endocrinology, 13, 1086883.
Giới thiệu
Thất bại thụ tinh là một vấn đề vô cùng nan giải trong điều trị IVF. Mặc dù đã có sự cải thiện đáng kể về tỷ lệ thụ tinh nhờ vào sự ra đời của kỹ thuật ICSI, nhưng vẫn còn khoảng 1-5% trường hợp thất bại thụ tinh hoàn toàn mà không rõ nguyên nhân.
Việc xác định các dạng đột biến gen là rất quan trọng không chỉ để nắm rõ được cơ chế gây thất bại thụ tinh ở cấp độ phân tử mà còn giúp trong việc điều trị và chẩn đoán cho bệnh nhân. Những tiến bộ gần đây trong kỹ thuật sinh học phân tử đã thúc đẩy mạnh mẽ việc xác định các gen chịu trách nhiệm cho quá trình thụ tinh cũng như xác định các gen gây bệnh liên quan đến sự thất bại thụ tinh ở một số trường hợp.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tập trung vào các đột biến gen gây thất bại thụ tinh trong các chu kỳ IVF/ICSI, cũng như cung cấp thêm những thông tin hữu ích và kịp thời về nguyên nhân di truyền và dấu ấn sinh học gây thất bại thụ tinh.
Thiết kế nghiên cứu:
Tổng quan này phân tích dữ liệu từ tất cả các nghiên cứu được xuất bản cho đến 12/2021 trên PubMed, tổng cộng có 669 nghiên cứu. Có 83 nghiên cứu đạt tiêu chuẩn nhận loại, trong đó có 28 bài đáp ứng các tiêu chí quan trọng để đưa vào đánh giá. Bài tổng quan hệ thống chọn tập trung các nghiên cứu thảo luận về các đột biến gen cụ thể liên quan đến thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh trong điều trị IVF/ICSI và cung cấp bằng chứng thuyết phục về vai trò của các gen này trong các kiểu hình tương ứng.
Kết quả:
Dữ liệu nghiên cứu thu được từ giải trình tự toàn bộ bộ gen (whole exome sequencing – WES) và giải trình tự Sanger ở những bệnh nhân mang các đột biến gen gây ra tình trạng thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh sau khi thực hiện IVF/ICSI. Phát hiện được các dạng đột biến gen gây ra tình trạng trên:
- PLCZ1:
- WEE2:
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy đột biến gen WEE2 có thể dẫn đến thất bại trong quá trình thụ tinh và vô sinh ở nữ giới. Cho đến nay, 8 nghiên cứu đã báo cáo có tổng cộng 27 dạng đột biến WEE2 ở những bệnh nhân thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh (gồm 12 đột biến sai nghĩa, 10 đột biến lệch khung, 3 đột biến ở vị trí nối và 2 đột biến vô nghĩa). Những đột biến này tuân theo kiểu di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường và được chứng minh là bị cắt ngắn hoặc mất chức năng, do đó làm giảm nồng độ protein và làm rối loạn quá trình phosphoryl hóa WEE2. Trong tất cả các báo cáo mô tả tình trạng vô sinh nữ liên quan đến đột biến WEE2, gần như tất cả các tế bào noãn thu được từ những bệnh nhân đều không thể hình thành hai tiền nhân sau khi thực hiện IVF/ICSI. Hơn nữa, ICSI-AOA không thể cứu vãn tình trạng thụ tinh thất bại.
- TUBB8:
- NLRP5:
- ACTL9 và ACTL7A
Hai đột biến sai nghĩa và một đột biến vô nghĩa trong gen ACTL9 đã được xác định ở ba cá thể thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh hoàn toàn sau chu kỳ IVF/ICSI. Những bệnh nhân mang đột biến ACTL9 tồn tại tỷ lệ tinh trùng đầu thuôn dài cao hơn so với những cá thể không mang đột biến. Những đột biến ACTL9 này đã được chứng minh là làm suy yếu hoặc mất khả năng tương tác với ACTL7A, dẫn đến màng acrosome bên trong tách ra khỏi nhân và hình thành cấu trúc vỏ quanh nhân lỏng lẻo.
Hai biến thể dị hợp tử trong ACTL7A đã được xác định ở một cặp vợ chồng không thụ tinh hoàn toàn sau ICSI. Đột biến này tuân theo kiểu di truyền lặn. Mô hình chuột khuyết ACTL7A cho thấy giảm biểu hiện và định vị bất thường của PLCZ1, có thể là nguyên nhân gây ra sự thất bại trong quá trình thụ tinh.
- ZP2:
- TLE6:
- DNAH17:
Hai đột biến dị hợp tử trong gen DNAH17 đã được xác định ở bệnh nhân vô sinh nam với khả năng di chuyển của tinh trùng giảm rõ rệt và gây ra thất bại thụ tinh hoàn toàn sau hai lần thực hiện ICSI (gồm đột biến sai nghĩa và đột biến vô nghĩa). Đột biến DNAH17 là đột biến gen lặn ảnh hưởng đến chức năng tinh trùng gây thất bại thụ tinh hoàn toàn.
Kết luận:
Với số chu kỳ IVF/ICSI ngày càng tăng mang đến cơ hội để đánh giá một cách có hệ thống về các khiếm khuyết trong quá trình thụ tinh. Bài đánh giá tổng quan này đã tóm tắt về các đột biến gen liên quan đến thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh. Trong những nghiên cứu này, một nhóm bệnh nhân mang đột biến liên quan đến tinh trùng đã mang thai thông qua ICSI với AOA. Ngược lại, những bệnh nhân mang đột biến liên quan đến noãn rất khó để mang thai, và theo báo cáo chỉ có một bệnh nhân mang đột biến ZP2 sinh con sau khi điều trị bằng ICSI. Đối với những phụ nữ mang đột biến WEE2, TUBB8, NLRP5 và TLE6, xin noãn được coi là một chiến lược hiệu quả. Những phát hiện này cung cấp thêm thông tin về nguyên nhân di truyền và dấu ấn sinh học phía sau quá trình thụ tinh kém hoặc thất bại thụ tinh, đồng thời cung cấp một số hướng dẫn cho các bác sĩ trong việc tư vấn di truyền và tối ưu hóa các phương pháp điều trị lâm sàng.
Nguồn: Xue, Y., Cheng, X., Xiong, Y., & Li, K. (2022). Gene mutations associated with fertilization failure after in vitro fertilization/intracytoplasmic sperm injection. Frontiers in Endocrinology, 13, 1086883.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của sự phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả ICSI tùy thuộc vào chất lượng noãn - Ngày đăng: 21-07-2023
Giảm dự trữ buồng trứng là yếu tố nguy cơ của tiền sản giật và giảm tưới máu nhau thai - Ngày đăng: 12-07-2023
Tuổi của người cha trên 50 tuổi làm giảm kết quả thành công của công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART): Một phân tích hồi cứu đơn trung tâm - Ngày đăng: 12-07-2023
Lợi ích của trehalose và gentiobiose đối với đông lạnh tinh trùng người - Ngày đăng: 12-07-2023
Sự ảnh hưởng của tuổi tác và thông số tinh dịch đến phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) - Ngày đăng: 12-07-2023
Cơ hội có thai tự nhiên ở những phụ nữ được điều trị vô sinh thành công: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 12-07-2023
Dự đoán adenomyosis trên mô học dựa vào hình ảnh MRI - Ngày đăng: 10-07-2023
Nồng độ progesterone huyết thanh thấp liên quan với tỷ lệ thai diễn tiến và tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hơn trong hỗ trợ sinh sản: tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 10-07-2023
Ảnh hưởng của sự phát triển nang noãn và phóng noãn ngoài dự đoán ở các chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh – đơn phôi được chuẩn bị nội mạc tử cung bằng sử dụng phác đồ chu kỳ nhân tạo - Ngày đăng: 10-07-2023
Tối ưu hóa độ thẩm thấu của môi trường nuôi cấy trong quá trình điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 10-07-2023
Đánh giá các yếu tố lâm sàng giúp dự đoán song sinh cùng trứng sau khi chuyển đơn phôi đông lạnh - Ngày đăng: 07-07-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK