Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 07-07-2023 1:15pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFMD, bệnh viện Mỹ Đức Tân Bình
 
Đa thai làm tăng nhiều nguy cơ mắc các biến chứng nguy hiểm trong thai kỳ cho cả mẹ và em bé như tăng huyết áp, đái tháo đường thai kỳ, rối loạn tăng huyết áp, thiếu máu, xuất huyết sau sinh, mổ lấy thai hay trầm cảm sau sinh. Ngoài ra, trẻ với tỷ lệ sinh non cao hơn và do đó tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ bại não và tử vong sơ sinh cũng cao hơn. Nguy cơ đa thai có thể xảy ra từ việc hai tinh trùng thụ tinh với hai noãn riêng biệt gọi là sinh đôi khác trứng hoặc một tinh trùng thụ tinh với một noãn, từ một phôi phân tách thành hai phôi gọi là sinh đôi cùng trứng - monozygotic twins (MZTs). MZTs làm tăng tỷ lệ sinh non, cũng như tăng tỷ lệ các biến chứng khác như tăng trưởng bất thường, hội chứng truyền máu song sinh và tỷ lệ tử vong chu sinh cao hơn sinh đôi khác trứng.

Với những rủi ro đã nói ở trên, việc đa thai dưới bất kỳ hình thức nào đều được coi là yếu tố nguy cơ cao trong lĩnh vực công nghệ hỗ trợ sinh sản. Để giảm tỷ lệ sinh đôi sau điều trị, chiến lược chuyển phôi đơn (elective single embryo transfer - eSET) đã trở thành một mô hình chăm sóc được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, khả năng mang thai MZT vẫn có thể xảy ra với eSET. Hiện tại, tỷ lệ MZT sau eSET nằm trong khoảng từ 0,97% đến 2,35%, cao hơn tỷ lệ 0,4% được thấy ở trường hợp có thai tự nhiên. Với những phát hiện này, một số nghiên cứu đã tìm cách xác định các cơ chế và các yếu tố rủi ro cơ bản góp phần làm tăng tỷ lệ MZT trong quá trình eSET, với các yếu tố rủi ro được xác định cho đến nay là chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang và nhóm noãn trẻ tuổi hơn. Các dữ liệu khác cho thấy rằng việc tác động đến màng trong suốt, chẳng hạn như kỹ thuật hỗ trợ thoát màng (Assisted hatching - AH) có thể làm tăng tỷ lệ MZT. Cơ chế được đề xuất là việc tăng tính linh hoạt của màng trong suốt sẽ làm tăng nguy cơ phân chia khối tế bào bên trong (ICM) và do đó dẫn đến sự phát triển của hai cực của thai nhi. Tuy nhiên, dữ liệu về việc liệu việc AH có thực sự làm tăng nguy cơ mắc MZT hay không vẫn chưa thống nhất.

Điều quan trọng cần lưu ý là các quy trình điều trị hiếm muộn và điều kiện trong phòng thí nghiệm phôi học đã phát triển theo thời gian. Các thay đổi có thể bao gồm loại lồng cấy, môi trường nuôi cấy, nồng độ oxy,… ngày càng giúp việc nuôi cấy phôi ổn định hơn.

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá những tiến triển gần đây trong phòng thí nghiệm nuôi cấy phôi, bao gồm việc tăng cường sử dụng các chu kỳ tự nhiên và sử dụng môi trường chuyển phôi chứa hyaluronan ảnh hưởng đến tỷ lệ song sinh cùng trứng ở những chu kỳ chuyển đơn phôi trữ.

Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên tất cả trường hợp chuyển phôi đông lạnh từ tháng 1-2016 đến tháng 12-2018 tại New York (Mỹ). Dữ liệu được thu thập gồm độ tuổi vào thời điểm chọc hút noãn, tuổi khi chuyển phôi trữ, độ dày nội mạc tử cung, sử dụng môi trường chứa hyaluronan, noãn tự thân hay noãn hiến tặng, độ nở rộng của khoang phôi, chất lượng phôi chuyển, thực hiện PGT nhằm đánh giá ảnh hưởng của độ tuổi và các yếu tố khác có thể làm tăng hiện tượng sinh đôi cùng trứng.

Kỹ thuật AH được thực hiện trên tất cả những phôi khi cần thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) và ở thời điểm rã đông, trừ trường hợp phôi đã thoát màng. Từ tháng 7-2017, môi trường nuôi cấy hệ đệm bicarbonate được bổ sung hyaluronan và albumin người tái tổ hợp được thương mại dưới tên EmbryoGlue (Vitrolife, Gotheburg, Thuỵ Điển) được đưa vào sử dụng cho tất cả trường hợp chuyển phôi. Tất cả phôi nang sau tháng 7-2017 được ủ trong môi trường giàu hyaluronan 30-180 phút trước khi chuyển phôi.

KẾT QUẢ
Tổng cộng có 1.619 chu kỳ có thai lâm sàng sau chuyển đơn phôi trữ được đưa vào nghiên cứu. Trong đó, có 31 trường hợp sinh đôi cùng trứng được ghi nhận, tỉ lệ MZT là 1,9%. Hai nhóm MZT và không MZT không có sự khác biệt độ tuổi (37,5 ± 4,7 tuổi ở nhóm MZT so với 37,2 ± 4,5 tuổi ở nhóm không MZT, p=0,9) và độ dày nội mạc tử cung (9,3 ± 1,8 mm ở nhóm MZT so với 9,1 ± 2,9 mm ở nhóm không có MZT, p=0,6). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ MZT ở nhóm sử dụng noãn tự thân (1,8%) và noãn hiến tặng (1,8%). Phôi ở nhóm MZT và không MZT tương tự nhau về chất lượng khối ICM, TE và độ nở rộng của khoang phôi. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ MZT giữa nhóm AH và không AH (1,9% vs. 0%, p=0,99). Khi chuẩn bị nội mạc tử cung, 1.385(85,5%) chu kỳ là có phác đồ kiểm soát và 243 (14,5%) chu kỳ là tự nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về tỉ lệ sinh đôi cùng trứng (1,8% vs. 2,6%, p=0,4).

Có 875 trường hợp (54,1%) được ủ trong môi trường chứa hyaluronan trước khi chuyển vào người bệnh nhân. Trường hợp mang thai đôi cùng trứng được ghi nhận là ít hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm đã ủ trong môi trường giàu hyaluronan (11/875 tương đương 1,3%) so với nhóm không tiếp xúc với hyaluronan (20/744 tương đương 2,7%), p<0,04.

Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ và ICSI được thực hiện lần lượt ở 1.423 (87,9%) và 579 (35,7%) chu kỳ.Tất cả trường hợp sinh đôi cùng trứng đều trải qua PGT, cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không MZT (31/1.423 tương đương 2,2% so với 0/196 tương đương 0%, p<0,03).

Điểm mạnh của nghiên cứu bao gồm quy mô đoàn hệ lớn và khả năng kiểm soát các yếu tố gây nhiễu bằng mô hình hồi quy đa biến. Tuy nhiên, nghiên cứu bị hạn chế bởi tính chất hồi cứu và thực tế là tỷ lệ đơn thai chỉ được xác định bằng siêu âm và không được xác nhận bằng xét nghiệm di truyền cho những bệnh nhân sử dụng phác đồ chu kỳ tự nhiên. Một hạn chế khác là ảnh hưởng của tuổi cha đối với MZT không được nghiên cứu trong phân tích này và biến này cần được kiểm tra trong các nghiên cứu trong tương lai. Do việc mang thai MZT là những sự kiện hiếm gặp, nên cần có các nghiên cứu triển vọng lớn hơn để xác nhận xem liệu môi trường nuôi cấy giàu hyaluronan có thực sự bảo vệ chống lại việc mang thai MZT trong điều trị hiếm muộn hay không. Ngoài ra, do thiếu dữ liệu về tác động của loại chu kỳ đối với tỷ lệ MZT, các nghiên cứu bổ sung kiểm tra điều này cũng như các yếu tố rủi ro tiềm ẩn có thể thay đổi khác, như việc sử dụng PGT, được đảm bảo.

KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này, nhóm nghiên cứu đã quan sát thấy tỷ lệ MZT giảm có ý nghĩa thống kê khi chuyển phôi trữ với phôi được ủ trong môi trường giàu hyaluronan. Việc sử dụng PGT cần được nghiên cứu thêm như một yếu tố rủi ro đối với MZT. Mang thai đôi cùng trứng là một sự kiện hiếm gặp, cần có thêm dữ liệu, bao gồm các nghiên cứu tiến cứu lớn hơn để xác định phát hiện này.
 
Nguồn: Kelly, A. G., Blakemore, J. K., McCaffrey, C., & Grifo, J. A. (2021). Evaluation of clinical parameters as predictors of monozygotic twins after single frozen embryo transfer. F&S Reports2(4), 428-432.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK