Tin tức
on Monday 26-06-2023 10:09am
Danh mục: Tin quốc tế
CNXN. Nguyễn Thị Thuỷ Tiên
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được giới thiệu vào năm 1992 như một kỹ thuật đầy hứa hẹn cho các cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam và không thể mang thai bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (cIVF). Ban đầu, kỹ thuật ICSI được chỉ định trong các trường hợp vô sinh nam, tuy nhiên hiện nay ICSI đã được sử dụng phổ biến cho cả những trường hợp vô sinh không do yếu tố nam. Theo thống kê năm 1996, chỉ có 36,4% chu kỳ IVF được thực hiện bằng ICSI, tuy nhiên con số này đã tăng đáng kể lên 76,2% vào năm 2012. Trong số 1.395.634 chu kỳ IVF từ năm 1996 đến 2012, ICSI được chỉ định trong 65,1% trường hợp, còncIVF được chỉ định ở 34,9%, trong khi đó tỷ lệ vô sinh do nam giới chỉ được báo cáo là 35,8%. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng ICSI không thật sự hiệu quả trong các trường hợp vô sinh không phải do nam giới, tuy nhiên kỹ thuật này vẫn được sử dụng với tỷ lệ cao và ảnh hưởng của nó đối với tỷ lệ sinh sống tích lũy (CLBR) cũng chưa được đánh giá. Mục đích nghiên cứu là đánh giá CLBR trong khi sử dụng kỹ thuật ICSI so với cIVF và thực hiện phân tích so sánh chi phí của 2 phương pháp này.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên tổng cộng 46.967 bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam thực hiện chu kỳ chọc hút trứng tự thân đầu tiên trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015. Kết quả chính là tỷ lệ sinh sống tích lũy (CLBR), được định nghĩa là tối đa 1 ca sinh sống từ chu kỳ tạo phôi tự thân từ năm 2014 - 2015, chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh đến năm 2016. Các kết quả phụ bao gồm tỷ lệ sảy thai, tỷ lệ thụ tinh, tổng số phôi chuyển và trữ đông phôi.
Kết quả: Trong số các chu kỳ không có PGT-A ở bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam giới, CLBR là 60,9% đối với chu kỳ ICSI so với 64,3% đối với chu kỳ cIVF, khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Với PGT-A, không có sự khác biệt về CLBR giữa các trường hợp ICSI và cIVF (64,7% so với 69,0%). Các bệnh nhân đã phải chi trả chi phí ước tính khoảng $37.476.000 cho chu kỳ ICSI mà không thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A), và số tiền bệnh nhân phải chi trả thêm là $7.213.500 cho kỹ thuật ICSI kết hợp PGT-A.
Nghiên cứu cho thấy ICSI không cải thiện tỷ lệ sinh sống tích luỹ ở những bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam. Ngoài ra việc sử dụng kỹ thuật này có thể phát sinh thêm các chi phí cho bệnh nhân, do đó nhóm tác giả khuyến cáo việc sử dụng kỹ thuật ICSI thường quy ở những bệnh nhân vô sinh không phải do yếu tố nam giới là không cần thiết.
Nguồn: Iwamoto, A., Van Voorhis, B. J., Summers, K. M., Sparks, A., & Mancuso, A. C. (2022). Intracytoplasmic sperm injection vs. conventional in vitro fertilization in patients with non-male factor infertility. Fertility and Sterility, 118(3), 465-472.
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được giới thiệu vào năm 1992 như một kỹ thuật đầy hứa hẹn cho các cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam và không thể mang thai bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (cIVF). Ban đầu, kỹ thuật ICSI được chỉ định trong các trường hợp vô sinh nam, tuy nhiên hiện nay ICSI đã được sử dụng phổ biến cho cả những trường hợp vô sinh không do yếu tố nam. Theo thống kê năm 1996, chỉ có 36,4% chu kỳ IVF được thực hiện bằng ICSI, tuy nhiên con số này đã tăng đáng kể lên 76,2% vào năm 2012. Trong số 1.395.634 chu kỳ IVF từ năm 1996 đến 2012, ICSI được chỉ định trong 65,1% trường hợp, còncIVF được chỉ định ở 34,9%, trong khi đó tỷ lệ vô sinh do nam giới chỉ được báo cáo là 35,8%. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng ICSI không thật sự hiệu quả trong các trường hợp vô sinh không phải do nam giới, tuy nhiên kỹ thuật này vẫn được sử dụng với tỷ lệ cao và ảnh hưởng của nó đối với tỷ lệ sinh sống tích lũy (CLBR) cũng chưa được đánh giá. Mục đích nghiên cứu là đánh giá CLBR trong khi sử dụng kỹ thuật ICSI so với cIVF và thực hiện phân tích so sánh chi phí của 2 phương pháp này.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên tổng cộng 46.967 bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam thực hiện chu kỳ chọc hút trứng tự thân đầu tiên trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015. Kết quả chính là tỷ lệ sinh sống tích lũy (CLBR), được định nghĩa là tối đa 1 ca sinh sống từ chu kỳ tạo phôi tự thân từ năm 2014 - 2015, chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh đến năm 2016. Các kết quả phụ bao gồm tỷ lệ sảy thai, tỷ lệ thụ tinh, tổng số phôi chuyển và trữ đông phôi.
Kết quả: Trong số các chu kỳ không có PGT-A ở bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam giới, CLBR là 60,9% đối với chu kỳ ICSI so với 64,3% đối với chu kỳ cIVF, khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Với PGT-A, không có sự khác biệt về CLBR giữa các trường hợp ICSI và cIVF (64,7% so với 69,0%). Các bệnh nhân đã phải chi trả chi phí ước tính khoảng $37.476.000 cho chu kỳ ICSI mà không thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A), và số tiền bệnh nhân phải chi trả thêm là $7.213.500 cho kỹ thuật ICSI kết hợp PGT-A.
Nghiên cứu cho thấy ICSI không cải thiện tỷ lệ sinh sống tích luỹ ở những bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam. Ngoài ra việc sử dụng kỹ thuật này có thể phát sinh thêm các chi phí cho bệnh nhân, do đó nhóm tác giả khuyến cáo việc sử dụng kỹ thuật ICSI thường quy ở những bệnh nhân vô sinh không phải do yếu tố nam giới là không cần thiết.
Nguồn: Iwamoto, A., Van Voorhis, B. J., Summers, K. M., Sparks, A., & Mancuso, A. C. (2022). Intracytoplasmic sperm injection vs. conventional in vitro fertilization in patients with non-male factor infertility. Fertility and Sterility, 118(3), 465-472.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lạc nội mạc tử cung và Adenomyosis có cùng sinh lý bệnh - Ngày đăng: 26-06-2023
Có nên trì hoãn chuyển phôi trữ lạnh ở chu kỳ ngay sau khi chọc hút trứng hay không? - Ngày đăng: 22-06-2023
Xác suất tìm thấy tinh tử tròn ở nam giới vô tinh không do tắc nghẽn - Ngày đăng: 21-06-2023
Cách cải thiện kết cục lâm sàng của kỹ thuật tiêm tinh tử tròn vào bào tương noãn (ROSI): hiệu chỉnh các bất thường thượng di truyền - Ngày đăng: 21-06-2023
Chuyển phôi nang ngày 6 chất lượng tốt không ưu thế hơn so với chuyển phôi nang ngày 5 chất lượng kém trong các chu kì đông lạnh – rã đông được phân tầng theo độ tuổi: một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 06-06-2023
Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp về lý do chuyển phôi nang nguyên bội vẫn thất bại làm tổ. - Ngày đăng: 06-06-2023
Chuyển phôi dưới sự hỗ trợ của siêu âm đầu dò âm đạo cải thiện tỷ lệ mang thai ở bệnh nhân béo phì trong các chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 06-06-2023
Nghiên cứu khả năng di động và tỉ lệ sống của tinh trùng trên động vật thí nghiệm sử dụng các chất bảo quản đông lạnh khác nhau - Ngày đăng: 02-06-2023
Những bất thường của quá trình methyl hóa DNA trong tinh trùng bệnh nhân nam ở những trường hợp sảy thai liên tiếp - Ngày đăng: 02-06-2023
Bệnh nhân trẻ tuổi thất bại làm tổ có cần thiết thực hiện xét nghiệm tiền làm tổ? - Ngày đăng: 31-05-2023
Số lượng noãn thu được nhiều hơn sau chọc hút có liên quan đến sự gia tăng số lượng noãn được thụ tinh, số lượng phôi nang và tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy - Ngày đăng: 24-05-2023
Tác động của nhiễm HPV đối với tình trạng vô sinh của nam giới: một nghiên cứu hồi cứu quan sát - Ngày đăng: 24-05-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK