Tin tức
on Wednesday 24-05-2023 8:42am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Tăng Lê Thái Ngọc – IVFMD Tân Bình
Giới thiệu chung
Vô sinh do yếu tố nam chiếm khoảng 30% các trường hợp vô sinh hiếm muộn hiện nay. Một trong những xét nghiệm đầu tay cho các cặp vợ chồng điều trị hiếm muộn là xét nghiệm tinh dịch đồ. Tuy nhiên, xét nghiệm này thường không đủ để phân biệt nam giới có khả năng sinh sản với nam giới vô sinh và nó cần được kết hợp với việc đánh giá các dấu hiệu đáng tin cậy hơn, bao gồm cả tính toàn vẹn bộ gen tinh trùng. Tổn thương DNA tinh trùng, đánh giá bằng chỉ số DFI, là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển, làm tổ của phôi trong quá trình sinh sản tự nhiên, cũng như điều trị ART. Nguyên nhân của sự đứt gãy DNA tinh trùng bao gồm bất thường trong quá trình đóng gói DNA khi sinh tinh, bất thường trong quá trình apoptosis và phơi nhiễm với stress oxy hóa. Các điều kiện môi trường và bệnh lý như bệnh tại hệ sinh dục nam, lão hóa và tiếp xúc với hóa chất, chất phóng xạ độc hại là những tác nhân chính. Trong số các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HPV là tình trạng phổ biến nhất. Người ta ước tính rằng khoảng 50% đàn ông và phụ nữ có hoạt động tình dục có thể nhiễm virus này ít nhất một lần trong đời.
Thất bại trong việc loại bỏ HPV bởi hệ miễn dịch sẽ dẫn đến sự phát triển các tổn thương tăng sinh khối u. Đặc biệt, có ít nhất 12 kiểu gen nguy cơ cao của HPV (HR-HPV) có liên quan đến sự khởi đầu của ung thư biểu mô cổ tử cung, ung thư âm đạo, dương vật, vòm họng và khoang miệng. Bên cạnh vai trò toàn diện của HPV trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh ác tính, việc phát hiện DNA của HPV trong tinh dịch, ống dẫn tinh, mào tinh hoàn, tinh hoàn, niệu đạo và cơ quan sinh dục ngoài, đã cho thấy nguy cơ ảnh hưởng của HPV đến chất lượng tinh dịch, sức khỏe sinh sản và vô sinh. Đặc biệt, các nghiên cứu đã nhấn mạnh mối liên hệ giữa HPV với tỉ lệ mang thai tự nhiên thấp hơn, kết quả sinh sản kém và tỉ lệ sảy thai cao hơn trong ART.
Tác động tiêu cực của việc nhiễm HPV ở tinh trùng và cơ chế của chúng đã được báo cáo trong một số nghiên cứu. Trong số đó, một nghiên cứu cho rằng kháng thể kháng tinh trùng có tỉ lệ cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân dương tính với HPV so với nhóm âm tính, đã được xác định là nguyên nhân gây ra những thay đổi về khả năng di động và mật độ của tinh trùng. Một giả thuyết khác xác định tinh trùng là vật mang virion HPV do protein L1 của capsid virus có thể liên kết hiệu quả với syndecan-1, nằm trên hai vị trí của vùng xích đạo đầu của tinh trùng. Sự liên kết chặt chẽ này có thể gây ra sự suy giảm phản ứng acrosome và phát triển phôi. Trên thực tế, sự tích hợp của DNA virus trong bộ gen của vật chủ có thể gây ra tổn thương DNA, trong khi việc chuyển DNA của HPV vào noãn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển phôi sớm. Các tác giả khác cho rằng hoạt động của ROS tăng cao trong tinh tương nhiễm HPV có thể liên quan đến sự tổn thương màng và dẫn đến việc DNA của tinh trùng bị tổn thương do oxy hóa.
Cho đến nay, một số nghiên cứu đã điều tra sự phân mảnh DNA trong các mẫu tinh dịch bị nhiễm HPV. Một số tác giả đã quan sát thấy sự gia tăng DFI ở những bệnh nhân dương tính với HPV, trong khi các tác giả khác không tìm thấy mối tương quan. Lý do đằng sau những dữ liệu trái ngược như vậy là do sự định vị khác nhau của virion HPV trong bộ máy niệu sinh dục nam và trong các thành phần cấu tạo nên tinh dịch. Trên thực tế, vị trí và nguồn gốc chính xác của các phần tử virus vẫn chưa rõ ràng: chúng có thể nằm bên trong tế bào tinh trùng, tế bào biểu mô tiết niệu bị bong tróc, dịch tuyến tiền liệt hoặc một lần nữa, bắt nguồn từ bạn tình hoặc bắt nguồn từ các tế bào biểu mô vảy không phân chia giải phóng virion bằng con đường sản xuất virion truyền nhiễm.
Dù nguyên nhân là gì, tinh trùng nhiễm HPV và ảnh hưởng đến tính toàn vẹn bộ gen có tầm quan trọng đặc biệt trong ART, nơi không xảy ra bất kỳ sự chọn lọc tự nhiên nào đối với tinh trùng mang HPV. Để làm sáng tỏ tác động gây tranh cãi của việc nhiễm HPV đối với IVF, bắt buộc phải phân tích cẩn thận sự thay đổi các thông số của tinh trùng và tính toàn vẹn của DNA. Về khía cạnh này, nhóm tác giả đã thực hiện một nghiên cứu quan sát hồi cứu trên 117 mẫu tinh dịch của nam giới có vợ nhiễm HPV tham gia các thủ thuật IVF. Đối với mỗi mẫu, các thông số tinh dịch đồ đã được đánh giá, xét nghiệm HPV được tiến hành và xét nghiệm phân tán chất nhiễm sắc tinh trùng (sperm chromatin dispersion - SCD) được thực hiện để đánh giá tỉ lệ DFI ở tinh trùng.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu quan sát hồi cứu được thực hiện trên các mẫu tinh trùng của 117 nam giới có vợ dương tính với HPV. 117 mẫu tinh dịch của bệnh nhân trải qua IVF được đánh giá về các đặc điểm sau: mật độ, khả năng di động, hình thái và sự phân mảnh DNA của tinh trùng. Hai nhóm bệnh nhân được xác định bao gồm nhóm âm tính với HIV gồm 70 bệnh nhân và nhóm dương tính với HPV gồm 47 bệnh nhân. Các tiêu chí thu nhận bao gồm chưa từng bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, không mắc bệnh di truyền như xơ nang và không có rối loạn viêm nhiễm như giãn tĩnh mạch thừng tinh. DNA của HPV từ mẫu tinh dịch được phát hiện để xác định kiểu gen và phân biệt giữa kiểu gen nguy cơ cao và nguy cơ thấp dựa trên phân loại của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC).
Kết quả nghiên cứu
Dữ liệu của nghiên cứu trên cho thấy sự hiện diện của bất kỳ chủng HPV nào, bất kể vị trí chính xác của virion, có thể làm giảm một số thông số tinh dịch đồ của tinh trùng, trong khi HR-HPV đặc biệt ảnh hưởng đến tính toàn vẹn DNA của tinh trùng. Đây là một kết quả quan trọng vì ảnh hưởng khác nhau của kiểu gen HR và LR đến các thông số tinh dịch và tính toàn vẹn bộ gen tinh trùng hầu như không được phân tích ở các nghiên cứu trước đây.
Tài liệu tham khảo
Capra, G., Notari, T., Buttà, M., Serra, N., Rizzo, G., & Bosco, L. (2022). Human Papillomavirus (HPV) Infection and Its Impact on Male Infertility. Life, 12(11), 1919.
Giới thiệu chung
Vô sinh do yếu tố nam chiếm khoảng 30% các trường hợp vô sinh hiếm muộn hiện nay. Một trong những xét nghiệm đầu tay cho các cặp vợ chồng điều trị hiếm muộn là xét nghiệm tinh dịch đồ. Tuy nhiên, xét nghiệm này thường không đủ để phân biệt nam giới có khả năng sinh sản với nam giới vô sinh và nó cần được kết hợp với việc đánh giá các dấu hiệu đáng tin cậy hơn, bao gồm cả tính toàn vẹn bộ gen tinh trùng. Tổn thương DNA tinh trùng, đánh giá bằng chỉ số DFI, là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển, làm tổ của phôi trong quá trình sinh sản tự nhiên, cũng như điều trị ART. Nguyên nhân của sự đứt gãy DNA tinh trùng bao gồm bất thường trong quá trình đóng gói DNA khi sinh tinh, bất thường trong quá trình apoptosis và phơi nhiễm với stress oxy hóa. Các điều kiện môi trường và bệnh lý như bệnh tại hệ sinh dục nam, lão hóa và tiếp xúc với hóa chất, chất phóng xạ độc hại là những tác nhân chính. Trong số các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HPV là tình trạng phổ biến nhất. Người ta ước tính rằng khoảng 50% đàn ông và phụ nữ có hoạt động tình dục có thể nhiễm virus này ít nhất một lần trong đời.
Thất bại trong việc loại bỏ HPV bởi hệ miễn dịch sẽ dẫn đến sự phát triển các tổn thương tăng sinh khối u. Đặc biệt, có ít nhất 12 kiểu gen nguy cơ cao của HPV (HR-HPV) có liên quan đến sự khởi đầu của ung thư biểu mô cổ tử cung, ung thư âm đạo, dương vật, vòm họng và khoang miệng. Bên cạnh vai trò toàn diện của HPV trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh ác tính, việc phát hiện DNA của HPV trong tinh dịch, ống dẫn tinh, mào tinh hoàn, tinh hoàn, niệu đạo và cơ quan sinh dục ngoài, đã cho thấy nguy cơ ảnh hưởng của HPV đến chất lượng tinh dịch, sức khỏe sinh sản và vô sinh. Đặc biệt, các nghiên cứu đã nhấn mạnh mối liên hệ giữa HPV với tỉ lệ mang thai tự nhiên thấp hơn, kết quả sinh sản kém và tỉ lệ sảy thai cao hơn trong ART.
Tác động tiêu cực của việc nhiễm HPV ở tinh trùng và cơ chế của chúng đã được báo cáo trong một số nghiên cứu. Trong số đó, một nghiên cứu cho rằng kháng thể kháng tinh trùng có tỉ lệ cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân dương tính với HPV so với nhóm âm tính, đã được xác định là nguyên nhân gây ra những thay đổi về khả năng di động và mật độ của tinh trùng. Một giả thuyết khác xác định tinh trùng là vật mang virion HPV do protein L1 của capsid virus có thể liên kết hiệu quả với syndecan-1, nằm trên hai vị trí của vùng xích đạo đầu của tinh trùng. Sự liên kết chặt chẽ này có thể gây ra sự suy giảm phản ứng acrosome và phát triển phôi. Trên thực tế, sự tích hợp của DNA virus trong bộ gen của vật chủ có thể gây ra tổn thương DNA, trong khi việc chuyển DNA của HPV vào noãn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển phôi sớm. Các tác giả khác cho rằng hoạt động của ROS tăng cao trong tinh tương nhiễm HPV có thể liên quan đến sự tổn thương màng và dẫn đến việc DNA của tinh trùng bị tổn thương do oxy hóa.
Cho đến nay, một số nghiên cứu đã điều tra sự phân mảnh DNA trong các mẫu tinh dịch bị nhiễm HPV. Một số tác giả đã quan sát thấy sự gia tăng DFI ở những bệnh nhân dương tính với HPV, trong khi các tác giả khác không tìm thấy mối tương quan. Lý do đằng sau những dữ liệu trái ngược như vậy là do sự định vị khác nhau của virion HPV trong bộ máy niệu sinh dục nam và trong các thành phần cấu tạo nên tinh dịch. Trên thực tế, vị trí và nguồn gốc chính xác của các phần tử virus vẫn chưa rõ ràng: chúng có thể nằm bên trong tế bào tinh trùng, tế bào biểu mô tiết niệu bị bong tróc, dịch tuyến tiền liệt hoặc một lần nữa, bắt nguồn từ bạn tình hoặc bắt nguồn từ các tế bào biểu mô vảy không phân chia giải phóng virion bằng con đường sản xuất virion truyền nhiễm.
Dù nguyên nhân là gì, tinh trùng nhiễm HPV và ảnh hưởng đến tính toàn vẹn bộ gen có tầm quan trọng đặc biệt trong ART, nơi không xảy ra bất kỳ sự chọn lọc tự nhiên nào đối với tinh trùng mang HPV. Để làm sáng tỏ tác động gây tranh cãi của việc nhiễm HPV đối với IVF, bắt buộc phải phân tích cẩn thận sự thay đổi các thông số của tinh trùng và tính toàn vẹn của DNA. Về khía cạnh này, nhóm tác giả đã thực hiện một nghiên cứu quan sát hồi cứu trên 117 mẫu tinh dịch của nam giới có vợ nhiễm HPV tham gia các thủ thuật IVF. Đối với mỗi mẫu, các thông số tinh dịch đồ đã được đánh giá, xét nghiệm HPV được tiến hành và xét nghiệm phân tán chất nhiễm sắc tinh trùng (sperm chromatin dispersion - SCD) được thực hiện để đánh giá tỉ lệ DFI ở tinh trùng.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu quan sát hồi cứu được thực hiện trên các mẫu tinh trùng của 117 nam giới có vợ dương tính với HPV. 117 mẫu tinh dịch của bệnh nhân trải qua IVF được đánh giá về các đặc điểm sau: mật độ, khả năng di động, hình thái và sự phân mảnh DNA của tinh trùng. Hai nhóm bệnh nhân được xác định bao gồm nhóm âm tính với HIV gồm 70 bệnh nhân và nhóm dương tính với HPV gồm 47 bệnh nhân. Các tiêu chí thu nhận bao gồm chưa từng bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, không mắc bệnh di truyền như xơ nang và không có rối loạn viêm nhiễm như giãn tĩnh mạch thừng tinh. DNA của HPV từ mẫu tinh dịch được phát hiện để xác định kiểu gen và phân biệt giữa kiểu gen nguy cơ cao và nguy cơ thấp dựa trên phân loại của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC).
Kết quả nghiên cứu
- Trong số 117 mẫu tinh dịch của nam giới có vợ dương tính với HPV, 70 mẫu âm tính với HPV (59,8%) và 47 mẫu (40,2%) dương tính với HPV.
- Tỉ lệ di động tiến tới và hình dạng tinh trùng bị ảnh hưởng đáng kể bởi HPV. Tuy nhiên, không có ảnh hưởng liên quan đến HPV đối với DFI, mật độ, tổng số lượng và tổng khả năng di động của tinh trùng.
- Trong các mẫu tinh trùng dương tính HPV, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ DFI giữa nhóm nguy cơ cao (HR-HPV) và nguy cơ thấp (LR-HPV) (lần lượt 30,8% và 22,9%; p=0.0283)
Dữ liệu của nghiên cứu trên cho thấy sự hiện diện của bất kỳ chủng HPV nào, bất kể vị trí chính xác của virion, có thể làm giảm một số thông số tinh dịch đồ của tinh trùng, trong khi HR-HPV đặc biệt ảnh hưởng đến tính toàn vẹn DNA của tinh trùng. Đây là một kết quả quan trọng vì ảnh hưởng khác nhau của kiểu gen HR và LR đến các thông số tinh dịch và tính toàn vẹn bộ gen tinh trùng hầu như không được phân tích ở các nghiên cứu trước đây.
Tài liệu tham khảo
Capra, G., Notari, T., Buttà, M., Serra, N., Rizzo, G., & Bosco, L. (2022). Human Papillomavirus (HPV) Infection and Its Impact on Male Infertility. Life, 12(11), 1919.
Từ khóa: Tác động của nhiễm HPV đối với tình trạng vô sinh của nam giới: một nghiên cứu hồi cứu quan sát
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đánh giá ảnh hưởng của HPV đến động học phát triển phôi và tỉ lệ trẻ sinh sống ở những phụ nữ trải qua thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 24-05-2023
HPV trong tinh dịch và nguy cơ sẩy thai liên tiếp vô căn: thông tin chi tiết từ một nghiên cứu bệnh chứng đa trung tâm - Ngày đăng: 24-05-2023
Ảnh hưởng của u xơ tử cung ≤6 cm không gây biến dạng buồng tử cung đến kết quả thụ tinh trong ống nghiệm: Một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 22-05-2023
Dự đoán trẻ sinh sống từ chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi nang có nguồn gốc từ 1PN: mối tương quan giữa chất lượng phôi tổng thể, ICM, TE và độ nở rộng khoang phôi - Ngày đăng: 18-05-2023
Tiềm năng phát triển của noãn mi trưởng thành muộn sau chọc hút - Ngày đăng: 18-05-2023
Nghiên cứu sơ bộ đầu tiên về chuyển thoi vô sắc để điều trị các trường hợp vô sinh nguyên phát thực hiện IVF thất bại nhiều lần - Ngày đăng: 18-05-2023
So sánh tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm xin noãn trong chu kỳ chuyển phôi tươi giữa nhóm sử dụng noãn tươi và noãn rã đông - Ngày đăng: 18-05-2023
Báo cáo một trường hợp trẻ sinh sống khoẻ mạnh từ phôi có kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ là “hỗn loạn” - Ngày đăng: 18-05-2023
Giãn tĩnh mạch thừng tinh liên quan vô sinh và vai trò của stress oxy hóa với phân mảnh dna tinh trùng - Ngày đăng: 16-05-2023
Micro-TESE so với TESE thông thường đối với nam giới bị vô tinh không do tắc - Ngày đăng: 16-05-2023
Giãn tĩnh mạch thừng tinh và vô sinh nam: khía cạnh lịch sử, giải phẫu và tiết niệu - Ngày đăng: 16-05-2023
Ảnh hưởng của kích thích buồng trứng đến tỷ lệ phôi lệch bội và tỷ lệ phôi khảm - Ngày đăng: 24-04-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK