Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 24-05-2023 8:38am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Tăng Lê Thái Ngọc – IVFMD Tân Bình
 
Giới thiệu chung
Sẩy thai là tình trạng phôi thai hay thai nhi bị tống xuất ra khỏi buồng tử cung trước khi có thể sống được. Sẩy thai liên tiếp (recurrent pregnancy loss - RPL) được xác định khi tình trạng sẩy thai xảy ra liên tiếp từ 2-3 lần trở lên với tuổi thai dưới 20 tuần. Các nghiên cứu dịch tễ học lớn được thực hiện ở cả Châu Âu và Hoa Kỳ đã ước tính rằng tỉ lệ mắc RPL trung bình là 1-4% trong số tất cả phụ nữ mang thai. Cho đến nay, nguyên nhân dẫn đến tình trạng RPL vẫn không được hiểu rõ. Mặc dù đã có nhiều thử nghiệm chuyên sâu được thực hiện nhưng có khoảng 40-50% trường hợp RPL vẫn chưa xác định được nguyên nhân cơ bản. RPL vô căn có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về cả sức khỏe sinh sản và tâm lý cho các cặp vợ chồng bị ảnh hưởng. Do đó, việc xác định nguyên nhân gốc của RPL là rất quan trọng.
 
Các nghiên cứu gần đây về RPL cho thấy những bất thường về tinh trùng có thể đóng một vai trò quan trọng trong sinh lý bệnh của RPL. Mối liên quan giữa RPL và những thay đổi trong các thông số tinh dịch đồ thông thường (bao gồm tỉ lệ sống của tinh trùng, phần trăm hình thái bình thường, tỉ lệ di động hoặc di động tiến tới) là không nhất quán. Tuy nhiên, những dữ liệu nghiên cứu mới cho thấy tỉ lệ phân mảnh DNA tinh trùng (SDF) sẽ cao hơn ở các cặp vợ chồng trải qua RPL. Hơn thế nữa, mặc dù các bệnh lây truyền qua đường tình dục được chấp nhận rộng rãi như một yếu tố căn nguyên của vô sinh nam, nhưng chúng vẫn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng như một nguyên nhân có thể gây ra RPL.
 
Từ những bằng chứng gián tiếp ban đầu cho thấy rằng sự lây nhiễm HPV ở tinh trùng có tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản, các nhà khoa học đã đưa ra giả thuyết HPV có thể tác động tiêu cực đến các thông số của tinh trùng. Trên thực tế, tinh trùng của những bệnh nhân dương tính với HPV có biểu hiện giảm khả năng di động tiến tới và tỉ lệ tinh trùng có hình thái bình thường, cũng như có tỉ lệ phân mảnh DNA cao hơn đáng kể so với những người âm tính với HPV. Theo đó, tỉ lệ nhiễm HPV trong mẫu tinh trùng ở nam giới bị vô sinh cao hơn đáng kể so với dân số nói chung (tương ứng là 20,9% so với 8,2%). Một phân tích tổng hợp gần đây (2021) đã chứng minh mối liên quan đáng kể giữa nhiễm HPV và vô sinh nam, ngay cả sau khi điều chỉnh các yếu tố vô sinh nữ ([aOR], 3,02;  KTC 95%: 2,11, 4,33). Hơn nữa, một nghiên cứu tiến cứu đa trung tâm lớn (2019) cũng đã báo cáo rằng sự hiện diện của  vi rút HPV trong tinh trùng có thể giảm đi bốn lần khả năng mang thai lâm sàng ở các cặp vợ chồng thực hiện IUI. Cuối cùng, mặc dù cỡ mẫu nhỏ, một số nghiên cứu còn cho thấy nguy cơ sẩy thai cao đáng kể ở các cặp vợ chồng bị nhiễm HPV trong tinh dịch (OR, 5,13; KTC 95%: 2,40–10,94). Trong nghiên cứu hiện tại, nhóm tác giả đã xem xét vai trò của việc nhiễm HPV trong tinh trùng đối với tình trạng RPL. Nghiên cứu trên đã tập trung vào các trường hợp mang thai tự nhiên để hạn chế sự ảnh hưởng của một số yếu tố gây nhiễu liên quan đến cả những khó khăn trong việc mang thai và điều trị ART.
 
Phương pháp nghiên cứu
 
Đây là nghiên cứu hồi cứu bệnh chứng đa trung tâm được thực hiện trên 3 Bệnh viện Đại học tại Ý trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2020 đến tháng 3 năm 2022. Nhóm nghiên cứu bao gồm nam giới thuộc các cặp vợ chồng bị RPL vô căn trong tam cá nguyệt đầu tiên. Nhóm chứng bao gồm nam giới thuộc các cặp vợ chồng đã được chứng minh là có khả năng sinh sản bình thường và không có tiền sử sẩy thai. RPL được định nghĩa là có 2 lần sẩy thai trở lên trước đó. Các cặp vợ chồng được định nghĩa là ''có khả năng sinh sản bình thường'' nếu người vợ mang thai đủ tháng trong vòng một năm trước khi tham gia nghiên cứu. Tất cả những người phụ nữ tham gia nghiên cứu đều mang thai mà không cần sự trợ giúp từ ART. Kết quả chính của nghiên cứu là mối liên quan giữa việc nhiễm HPV được xác định bằng kỹ thuật PCR và tình trạng RPL.
 

 
Kết quả nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu, tổng cộng có 526 cặp vợ chồng được đánh giá về RPL và có 234 trường hợp được xác định là RPL vô căn. Trong số đó, có 117 người đồng ý tham gia nghiên cứu. Về nhóm chứng của nghiên cứu, tổng cộng có 1.860 nam giới có khả năng sinh sản bình thường đã đủ điều kiện tham gia nghiên cứu và 84 nam giới trong số này đồng ý tham gia phân tích tinh dịch và được đưa vào nghiên cứu.
 
Nhiễm HPV được phát hiện ở 23 trong số 117 trường hợp (20%; KTC 95% [CI]: 13%, 28%) và ở 3 trong số 84 trường hợp thuộc nhóm đối chứng (4%; KTC 95%; 1%, 10%) (P<.001). So sánh giữa các đặc điểm cơ sở và phân tích hồi quy không xác định được bất kỳ yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn nào. Các mô hình hồi quy đa biến cho thấy mối liên quan đáng kể giữa nhiễm HPV và RPL (aOR 7,44; KTC 95%: 2,08, 26,58; P=0,002 [Mô hình 1]; aOR, 8,96; KTC 95%: 2,41, 33,44 ;P=0,001 [Mô hình 2]).
 
Kết luận
Tỉ lệ nhiễm HPV ở tinh trùng cao hơn đáng kể ở các cặp vợ chồng bị ảnh hưởng bởi RPL so với nhóm chứng nghiên cứu là các cặp vợ chồng có khả năng sinh sản bình thường. Đáng chú ý, mẫu tinh dịch bị nhiễm HPV được phát hiện ở khoảng 1/5 bệnh nhân. Đây là nghiên cứu bệnh chứng đầu tiên điều tra và báo cáo rõ ràng về mối liên quan giữa nhiễm trùng HPV ở tinh trùng và RPL. Trong những năm gần đây, bằng chứng ủng hộ quan điểm nhiễm HPV ở nam giới tác động tiêu cực đối với khả năng sinh sản ngày càng tăng. Tuy nhiên, những nghiên cứu khác về chủ đề này trong tương lai vẫn vô cùng cần thiết để hiểu rõ hơn về mối liên hệ này và ý nghĩa tiềm năng của nó đối với thực hành lâm sàng.
 
Tài liệu tham khảo
Busnelli, A., Garolla, A., Tersigni, C., Parodi, V., Inversetti, A., Levi-Setti, P. E., ... & Di Simone, N. (2023). Sperm human papillomavirus infection and risk of idiopathic recurrent pregnancy loss: insights from a multicenter case–control study. Fertility and Sterility, 119(3), 410-418.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK