Tin tức
on Tuesday 16-05-2023 8:49am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Giãn tĩnh mạch thừng tinh (Varicocele – Var) được định nghĩa là các tĩnh mạch giãn ra bất thường trong đám rối dây thừng tinh và được phân loại dựa trên khám thực thể. Ở người bị Var, máu chảy ngược vào tĩnh mạch trong gây giãn nở mạch máu của các tĩnh mạch trong đám rối. Bệnh lý trào ngược máu này được cho là do bẩm sinh không đủ hoặc không có valve tĩnh mạch và được xem là một trong những nguyên nhân gây vô sinh, có thể điều trị bằng phẫu thuật. Var hiện diện ở khoảng 15% dân số nam giới bình thường, 25% nam giới có kết quả tinh dịch đồ bất thường, 35-40% bệnh nhân vô sinh nguyên phát và 81% nam giới vô sinh thứ phát được chẩn đoán là Var. Các yếu tố mà Var gây ra là tăng thân nhiệt bìu, giảm tưới máu tinh hoàn, thiếu oxy, dòng chảy ngược của các chất chuyển hóa độc hại và rối loại nội tiết tố. Các cơ chế này chủ yếu hợp nhất với sự gia tăng stress oxy hóa. Stress oxy hóa là sự mất cân bằng trong quá trình trao đổi chất liên quan đến sự dư thừa các loại oxy hóa phản ứng (ROS) và các chất chuyển hóa của con đường trao đổi chất oxy hóa. Một lượng nhỏ là thiết yếu để chuyến hóa tinh trùng tối ưu nhưng nồng độ cao sẽ gây bất lợi cho quá trình sinh tinh. Ngoài ra, phân mảnh DNA tinh trùng (sperm DNA fragmentation – SDF) có liên quan đến vô sinh nam, giảm tỉ lệ mang thai và tăng sẩy thai. Một số yếu tố có liên quan đến SDF, từ các yếu tố bên trong như khiếm khuyết về sinh tinh trùng và chết theo chương trình, Var, nhiễm trùng sinh dục, tiểu đường và béo phì đến các yếu tố bên ngoài như độc tố môi trường, hút thuốc là và phóng xạ. Tuy nhiên, stress oxy hóa được coi là con đường quan trọng nhất và cuối cùng dẫn đến SDF. Mối liên quan giữa Var, sự tăng ROS và điều trị phẫu thuật Var tác động đến các marker oxy hóa là chủ đề của một số nghiên cứu với nhiều bằng chứng hướng đến giảm stress oxy hóa và giảm thiểu tổn thương DNA sau phẫu thuật cắt tĩnh mạch thừng tinh. Vì vậy, bài báo này đề cập đến vô sinh do Var và vai trò của stress oxy hóa đối với SDF và vô sinh nam.
Nồng độ ROS thấp rất cần thiết cho nhiều phản ứng và chức năng sinh lý, từ hoạt động của ty thể đến tăng sinh tế bào nội mô. ROS cũng tham gia vào các chức năng của tinh trùng như khả năng hoạt hóa, phản ứng acrosome và tín hiệu thụ tinh. Quá trình sản xuất ROS được cân bằng bởi cả cơ chế bên trong và bên ngoài của hệ thống chống oxy hóa. Sự mất cân bằng các cơ chế này trong đường sinh dục nam gây ra stress oxy hóa, nguyên nhân dẫn đến tổn thương tinh trùng theo nhiều cách khác nhau, từ sự trưởng thành bị thay đổi đến khả năng di động suy giảm và quá trình chết theo chương trình cũng như tổn thương DNA tinh trùng. Các tế bào nội mô của đám rối tĩnh mạch bị giãn sẽ chịu trách nhiệm tạo ra các loại ROS và Nito gây hại cho tế bào tinh hoàn và mào tinh hoàn. Nhiều bằng chứng hướng đến sự tăng ROS ở nhóm bệnh nhân Var với các marker stress oxy hóa cao hơn như nitric oxide, nitric oxide synthase, malondialdehyde, hydrogen peroxyde và superoxide anion ngoại bào.
Một phân tích tổng hợp trên 118 nam vô sinh bị Var so với 76 người có tinh trùng bình thường cho thấy nồng độ ROS cao hơn đáng kể ở nhóm Var (95% CI 0,4-1,06; P<0,0001). Phẫu thuật cắt bỏ tĩnh mạch thừng tinh liên tục được mô tả là chiến lược hiệu quả về chi phí dành cho nam giới vô sinh bị Var, chủ yếu liên quan đến việc cải thiện các thông số tinh dịch. Khi xem xét các marker sinh học khác của vô sinh nam, điều trị phẫu thuật cũng liên quan đến mức độ thấp hơn của ROS và các marker stress oxy hóa sau thủ thuật. Sakamoto cũng từng báo cáo về sự cải thiện mật độ tinh dịch 6 tháng sau khi cắt tĩnh mạch thừng tinh tương ứng với mức ROS thấp hơn.
Nguồn gốc của SDF là tinh trùng người dễ bị tổn thương cao đối với stress oxy hóa, liên quan đến màng huyết tương giàu acid béo không bão hòa, hàm lượng tế bào chất hạn chế và thiếu cơ chế sửa chữa DNA. Tùy thuộc vào mức độ stress oxy hóa, ROS có thể tiếp cận DNA ty thể và DNA nhân. Thông qua các cơ chế khử ngưng tụ của chất nhiễm sắc, liên kết chéo protein của chất nhiễm sắc, thúc đẩy phá liên kết sợi đơn-đôi là loại tổn thương DNA chính và quan trọng nhất về mặt lâm sàng. Khi xem xét các loại SDF, không phải tất cả các xét nghiệm hiện có đều phát hiện tất cả theo cùng một cách. Sự đứt gãy một sợi có liên quan đến khả năng di động của tinh trùng thấp hơn và hình dạng xấu hơn. Do đó, quy trình ICSI có thể chọn tinh trùng có DNA ít bị hư hỏng hơn và mang lại kết quả mang thai tốt hơn. Tuy nhiên, sự đứt gãy sợi đôi có thể gây ra sự mất ổn định nhiễm sắc thể và khả năng sửa chữa của hợp tử bị hạn chế. Phẫu thuật cắt bỏ tĩnh mạch thừng tinh là một chiến lược quan trọng để giảm SDF nhưng kết quả lâm sàng của thai kỳ vẫn phải được làm sáng tỏ hơn với các thử nghiệm lâm sàng được thiết kế tốt.
Tóm lại, nồng độ ROS cao hơn xuất hiện ở những bệnh nhân Var và tác động oxy hóa của ROS đối với tinh trùng dẫn đến SDF cao hơn. Đây là một phần cơ bản của cơ chế gây vô sinh do Var và có một số hậu quả tiềm tàng trong khả năng sinh sản. Việc cắt bỏ tĩnh mạch thừng tinh là một hướng điều trị quan trọng trong việc cải thiện các thông số tinh dịch và giảm SDF. Nghiên cứu sâu hơn có thể cải thiện việc lựa chọn bệnh nhân hiệu quả hơn từ phẫu thuật điều chỉnh Var và tối ưu hóa việc quản lý lâm sàng.
Nguồn: Wood G.J.A, Cardoso J.P.G, Paluelo D.V, Nunes T.F và Cocuzza M. Varicocele-Associated infertility and the role of oxidative stress on sperm DNA fragmentation. Front. Reprod. 2021 Oct 29.
Giãn tĩnh mạch thừng tinh (Varicocele – Var) được định nghĩa là các tĩnh mạch giãn ra bất thường trong đám rối dây thừng tinh và được phân loại dựa trên khám thực thể. Ở người bị Var, máu chảy ngược vào tĩnh mạch trong gây giãn nở mạch máu của các tĩnh mạch trong đám rối. Bệnh lý trào ngược máu này được cho là do bẩm sinh không đủ hoặc không có valve tĩnh mạch và được xem là một trong những nguyên nhân gây vô sinh, có thể điều trị bằng phẫu thuật. Var hiện diện ở khoảng 15% dân số nam giới bình thường, 25% nam giới có kết quả tinh dịch đồ bất thường, 35-40% bệnh nhân vô sinh nguyên phát và 81% nam giới vô sinh thứ phát được chẩn đoán là Var. Các yếu tố mà Var gây ra là tăng thân nhiệt bìu, giảm tưới máu tinh hoàn, thiếu oxy, dòng chảy ngược của các chất chuyển hóa độc hại và rối loại nội tiết tố. Các cơ chế này chủ yếu hợp nhất với sự gia tăng stress oxy hóa. Stress oxy hóa là sự mất cân bằng trong quá trình trao đổi chất liên quan đến sự dư thừa các loại oxy hóa phản ứng (ROS) và các chất chuyển hóa của con đường trao đổi chất oxy hóa. Một lượng nhỏ là thiết yếu để chuyến hóa tinh trùng tối ưu nhưng nồng độ cao sẽ gây bất lợi cho quá trình sinh tinh. Ngoài ra, phân mảnh DNA tinh trùng (sperm DNA fragmentation – SDF) có liên quan đến vô sinh nam, giảm tỉ lệ mang thai và tăng sẩy thai. Một số yếu tố có liên quan đến SDF, từ các yếu tố bên trong như khiếm khuyết về sinh tinh trùng và chết theo chương trình, Var, nhiễm trùng sinh dục, tiểu đường và béo phì đến các yếu tố bên ngoài như độc tố môi trường, hút thuốc là và phóng xạ. Tuy nhiên, stress oxy hóa được coi là con đường quan trọng nhất và cuối cùng dẫn đến SDF. Mối liên quan giữa Var, sự tăng ROS và điều trị phẫu thuật Var tác động đến các marker oxy hóa là chủ đề của một số nghiên cứu với nhiều bằng chứng hướng đến giảm stress oxy hóa và giảm thiểu tổn thương DNA sau phẫu thuật cắt tĩnh mạch thừng tinh. Vì vậy, bài báo này đề cập đến vô sinh do Var và vai trò của stress oxy hóa đối với SDF và vô sinh nam.
Nồng độ ROS thấp rất cần thiết cho nhiều phản ứng và chức năng sinh lý, từ hoạt động của ty thể đến tăng sinh tế bào nội mô. ROS cũng tham gia vào các chức năng của tinh trùng như khả năng hoạt hóa, phản ứng acrosome và tín hiệu thụ tinh. Quá trình sản xuất ROS được cân bằng bởi cả cơ chế bên trong và bên ngoài của hệ thống chống oxy hóa. Sự mất cân bằng các cơ chế này trong đường sinh dục nam gây ra stress oxy hóa, nguyên nhân dẫn đến tổn thương tinh trùng theo nhiều cách khác nhau, từ sự trưởng thành bị thay đổi đến khả năng di động suy giảm và quá trình chết theo chương trình cũng như tổn thương DNA tinh trùng. Các tế bào nội mô của đám rối tĩnh mạch bị giãn sẽ chịu trách nhiệm tạo ra các loại ROS và Nito gây hại cho tế bào tinh hoàn và mào tinh hoàn. Nhiều bằng chứng hướng đến sự tăng ROS ở nhóm bệnh nhân Var với các marker stress oxy hóa cao hơn như nitric oxide, nitric oxide synthase, malondialdehyde, hydrogen peroxyde và superoxide anion ngoại bào.
Một phân tích tổng hợp trên 118 nam vô sinh bị Var so với 76 người có tinh trùng bình thường cho thấy nồng độ ROS cao hơn đáng kể ở nhóm Var (95% CI 0,4-1,06; P<0,0001). Phẫu thuật cắt bỏ tĩnh mạch thừng tinh liên tục được mô tả là chiến lược hiệu quả về chi phí dành cho nam giới vô sinh bị Var, chủ yếu liên quan đến việc cải thiện các thông số tinh dịch. Khi xem xét các marker sinh học khác của vô sinh nam, điều trị phẫu thuật cũng liên quan đến mức độ thấp hơn của ROS và các marker stress oxy hóa sau thủ thuật. Sakamoto cũng từng báo cáo về sự cải thiện mật độ tinh dịch 6 tháng sau khi cắt tĩnh mạch thừng tinh tương ứng với mức ROS thấp hơn.
Nguồn gốc của SDF là tinh trùng người dễ bị tổn thương cao đối với stress oxy hóa, liên quan đến màng huyết tương giàu acid béo không bão hòa, hàm lượng tế bào chất hạn chế và thiếu cơ chế sửa chữa DNA. Tùy thuộc vào mức độ stress oxy hóa, ROS có thể tiếp cận DNA ty thể và DNA nhân. Thông qua các cơ chế khử ngưng tụ của chất nhiễm sắc, liên kết chéo protein của chất nhiễm sắc, thúc đẩy phá liên kết sợi đơn-đôi là loại tổn thương DNA chính và quan trọng nhất về mặt lâm sàng. Khi xem xét các loại SDF, không phải tất cả các xét nghiệm hiện có đều phát hiện tất cả theo cùng một cách. Sự đứt gãy một sợi có liên quan đến khả năng di động của tinh trùng thấp hơn và hình dạng xấu hơn. Do đó, quy trình ICSI có thể chọn tinh trùng có DNA ít bị hư hỏng hơn và mang lại kết quả mang thai tốt hơn. Tuy nhiên, sự đứt gãy sợi đôi có thể gây ra sự mất ổn định nhiễm sắc thể và khả năng sửa chữa của hợp tử bị hạn chế. Phẫu thuật cắt bỏ tĩnh mạch thừng tinh là một chiến lược quan trọng để giảm SDF nhưng kết quả lâm sàng của thai kỳ vẫn phải được làm sáng tỏ hơn với các thử nghiệm lâm sàng được thiết kế tốt.
Tóm lại, nồng độ ROS cao hơn xuất hiện ở những bệnh nhân Var và tác động oxy hóa của ROS đối với tinh trùng dẫn đến SDF cao hơn. Đây là một phần cơ bản của cơ chế gây vô sinh do Var và có một số hậu quả tiềm tàng trong khả năng sinh sản. Việc cắt bỏ tĩnh mạch thừng tinh là một hướng điều trị quan trọng trong việc cải thiện các thông số tinh dịch và giảm SDF. Nghiên cứu sâu hơn có thể cải thiện việc lựa chọn bệnh nhân hiệu quả hơn từ phẫu thuật điều chỉnh Var và tối ưu hóa việc quản lý lâm sàng.
Nguồn: Wood G.J.A, Cardoso J.P.G, Paluelo D.V, Nunes T.F và Cocuzza M. Varicocele-Associated infertility and the role of oxidative stress on sperm DNA fragmentation. Front. Reprod. 2021 Oct 29.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Micro-TESE so với TESE thông thường đối với nam giới bị vô tinh không do tắc - Ngày đăng: 16-05-2023
Giãn tĩnh mạch thừng tinh và vô sinh nam: khía cạnh lịch sử, giải phẫu và tiết niệu - Ngày đăng: 16-05-2023
Ảnh hưởng của kích thích buồng trứng đến tỷ lệ phôi lệch bội và tỷ lệ phôi khảm - Ngày đăng: 24-04-2023
Sử dụng tinh trùng từ bảo quản lạnh không ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống ở các chu kỳ có yếu tố nam bình thường - Phân tích trên 7969 chu kỳ với noãn hiến - Ngày đăng: 17-04-2023
Tuổi của người cha có phải là một yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống trong các chu kỳ xin noãn? Một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 17-04-2023
Một phương pháp mới để xử lý phôi bị nhiễm khuẩn trong quá trình nuôi cấy - Ngày đăng: 14-04-2023
So sánh kết quả phát triển phôi sau khi kéo dài thời gian nuôi cấy phôi đến ngày 6: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 10-04-2023
Một nghiên cứu theo dõi 10 - 15 năm trên nhóm trữ lạnh noãn chủ động khi họ quyết định quay trở lại sử dụng - Ngày đăng: 05-04-2023
Hiệu quả sử dụng và hiệu quả chi phí của việc trữ lạnh noãn chủ động - Ngày đăng: 05-04-2023
Chuyển ti thể vào noãn người giúp cải thiện chất lượng phôi và kết quả lâm sàng ở các trường hợp thất bại nhiều chu kỳ IVF liên tiếp - Ngày đăng: 03-04-2023
Chuyển ty thể từ tế bào gốc mỡ giúp cải thiện tiềm năng phát triển ở noãn đông lạnh - Ngày đăng: 03-04-2023
Ảnh hưởng của tuổi và BMI với kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 30-03-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK