Tin tức
on Thursday 18-05-2023 9:09am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFMD Tân Bình, Bệnh viện Mỹ Đức
Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ sinh con của phụ nữ ở độ tuổi 20–34 đang giảm, trong khi tỷ lệ sinh con ở nhóm 35–44 tuổi lại tăng lên. Năm 2018, những người lần đầu làm mẹ có độ tuổi trung bình là 26,9 tuổi, đây là mức cao kỷ lục đối với Mỹ, cho thấy trì hoãn tuổi có con đang là xu hướng ở những năm gần đây. Những thay đổi trong nhận thức, bình đẳng xã hội tạo cơ hội cho phụ nữ phát triển sự nghiệp, học vấn cũng như chờ đợi tìm được người bạn đời phù hợp, cùng với các biện pháp tránh thai ngày càng hiệu quả, giúp phụ nữ có nhiều lựa chọn hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy xu hướng đánh giá quá cao sinh sản của phụ nữ khi trẻ tuổi cũng như đánh giá quá cao hiệu quả điều trị của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở nhóm lớn tuổi. Những yếu tố trên khiến cho xu hướng trì hoãn việc có con ngày càng phổ biến những năm gần đây. Hệ quả của việc trì hoãn có con có thể dẫn đến sự suy giảm về số lượng và chất lượng noãn của chính người phụ nữ, khiến việc có thai tự nhiên hay lựa chọn điều trị IVF không thành công với noãn tự thân, buộc họ phải xin noãn khi quyết định có con.
Đến năm 1986, trường hợp mang thai đầu tiên sử dụng noãn đông lạnh được báo cáo, tuy nhiên do phương pháp đông lạnh chậm cho tỷ lệ sống và thụ tinh của noãn sau rã đông thấp nên không được sử dụng phổ biến trong khoảng thời gian đó. Phương pháp thủy tinh hóa ra đời đã hạn chế được những tổn thương do quá trình đông lạnh gây nên cho tế bào noãn, cải thiện các tỷ lệ lâm sàng đáng kể nên đông lạnh noãn đã được chấp thuận và sử dụng rộng rãi.
Ở những bệnh nhân sử dụng noãn hiến tặng, môi trường trong nội mạc tử cung mang tính sinh lý hơn (nồng độ nội tiết không tăng cao như trong các chu kì kích thích buồng trứng), do đó việc đánh giá tác động của trữ rã đến sự phát triển của phôi từ noãn hiến tặng và tỷ lệ thành công IVF ở người được cho là hướng nghiên cứu hấp dẫn.
Ngày nay, chỉ định sử dụng noãn hiến tặng khi phụ nữ có dự trữ buồng trứng thấp, các bệnh lý di truyền không nên sử dụng noãn tự thân. Kỹ thuật trữ đông noãn được Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ coi là thử nghiệm cho đến mùa thu năm 2012. Vào thời điểm đó, đã có 7 ngân hàng noãn thương mại tồn tại và 8.780 noãn của người hiến tặng được trữ đông đã được sử dụng, có đến 602 trường hợp mang thai. Có thể thấy, nhu cầu sử dụng noãn hiến tặng là một giải pháp cho những phụ nữ không thể sử dụng noãn tự thân, và kết quả điều trị giữa noãn tươi hay noãn trữ lạnh đang ngày càng được quan tâm.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tỉ lệ trẻ sinh sống ở hai nhóm sử dụng noãn hiến tươi và noãn hiến đông lạnh.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu đoàn hệ trên 24.663 chu kỳ chuyển phôi tươi sử dụng noãn hiến tặng từ 2014 đến 2016, tại Hoa Kỳ. Kết cục chính của nghiên cứu là kết quả chuyển phôi tươi ngày 5 từ giữa noãn tươi và noãn rã đông. Kết cục phụ là số trẻ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi, số phôi đủ điều kiện đông lạnh và chất lượng noãn thu được.
Kết quả
Tổng cộng có 16073 phôi chuyển từ noãn tươi và 8590 phôi từ noãn trữ đông. Tuổi của người nhận, chỉ số khối cơ thể (BMI), tính tương đương giữa các nhóm là tương tự nhau. Hầu hết những người nhận là người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha (66,9%), tiếp theo là người châu Á (13,7%), người da đen không phải gốc Tây Ban Nha (9,3%) và người gốc Tây Ban Nha (7,2%).
Kết quả cho thấy nhóm noãn tươi có số bệnh nhân lựa chọn chuyển đơn phôi (42,5% so với 37,8%) hoặc chuyển hai phôi (53,2% so với 50,4%) cao hơn so với nhóm đông lạnh. Từ đó, nhóm sử dụng noãn tươi có nhiều phôi dư hơn để trữ đông (4,6 so với 1,2). Tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm noãn tươi (57,5%) cao hơn so với nhóm noãn trữ đông (49,7%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Một phát hiện khác cần lưu ý là tuổi người hiến tặng noãn. Tuổi trung bình của người cho noãn là 26 đối với noãn tươi và 25,8 đối với noãn đông lạnh, tỷ lệ chuyển hai phôi trong các chu kỳ chuyển phôi tươi chiếm hơn 50%. Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ đa thai cao. Cụ thể, tỷ lệ đa thai cao hơn trong các chu kỳ sử dụng noãn tươi (26,4%) so với noãn trữ đông (20,6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tỷ lệ sẩy thai ở nhóm noãn tươi thấp hơn nhóm noãn trữ, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (12,3% so với 13,4%, p=0,01). Cân nặng của trẻ ở nhóm noãn tươi thấp hơn so với noãn trữ đông, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (2,828±764 so với 2,877±768, p<0,001).
Nghiên cứu có điểm mạnh là sử dụng tỉ lệ trẻ sinh sống là kết quả chính cũng như cỡ mẫu lớn. Ngoài ra, việc lựa chọn tiêu chuẩn đầu vào ở nhóm chu kỳ chuyển phôi tươi đã loại bỏ tác động của việc trữ lạnh và rã đông phôi có thể tác động đến kết quả điều trị. Ngoài ra, việc giới hạn phân tích đối với chuyển phôi tươi đã loại bỏ bất kỳ tác động gây nhiễu nào mà việc trữ đông phôi có thể gây ra đối với tỷ lệ sinh sống. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng có hạn chế là nghiên cứu hồi cứu.
Kết luận
Tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn khoảng 6-8% khi sử dụng noãn tươi so với noãn đông lạnh ở những chu kỳ chuyển phôi tươi. Chuyển hai phôi thường phổ biến ở nhóm sử dụng noãn hiến tặng, do yếu tố tâm lý dẫn đến nhóm này thường có tỷ lệ đa thai cao.
Nguồn: Whynott, R. M., Summers, K. M., Ball, G. D., Van Voorhis, B. J., & Sparks, A. (2022). Fresh embryo transfer after in vitro insemination of fresh vs. cryopreserved anonymous donor oocytes: which has a better live birth rate? A Society for Assisted Reproductive Technology Clinic Outcome Reporting System analysis. Fertility and sterility, 117(4), 803-810.
Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ sinh con của phụ nữ ở độ tuổi 20–34 đang giảm, trong khi tỷ lệ sinh con ở nhóm 35–44 tuổi lại tăng lên. Năm 2018, những người lần đầu làm mẹ có độ tuổi trung bình là 26,9 tuổi, đây là mức cao kỷ lục đối với Mỹ, cho thấy trì hoãn tuổi có con đang là xu hướng ở những năm gần đây. Những thay đổi trong nhận thức, bình đẳng xã hội tạo cơ hội cho phụ nữ phát triển sự nghiệp, học vấn cũng như chờ đợi tìm được người bạn đời phù hợp, cùng với các biện pháp tránh thai ngày càng hiệu quả, giúp phụ nữ có nhiều lựa chọn hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy xu hướng đánh giá quá cao sinh sản của phụ nữ khi trẻ tuổi cũng như đánh giá quá cao hiệu quả điều trị của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở nhóm lớn tuổi. Những yếu tố trên khiến cho xu hướng trì hoãn việc có con ngày càng phổ biến những năm gần đây. Hệ quả của việc trì hoãn có con có thể dẫn đến sự suy giảm về số lượng và chất lượng noãn của chính người phụ nữ, khiến việc có thai tự nhiên hay lựa chọn điều trị IVF không thành công với noãn tự thân, buộc họ phải xin noãn khi quyết định có con.
Đến năm 1986, trường hợp mang thai đầu tiên sử dụng noãn đông lạnh được báo cáo, tuy nhiên do phương pháp đông lạnh chậm cho tỷ lệ sống và thụ tinh của noãn sau rã đông thấp nên không được sử dụng phổ biến trong khoảng thời gian đó. Phương pháp thủy tinh hóa ra đời đã hạn chế được những tổn thương do quá trình đông lạnh gây nên cho tế bào noãn, cải thiện các tỷ lệ lâm sàng đáng kể nên đông lạnh noãn đã được chấp thuận và sử dụng rộng rãi.
Ở những bệnh nhân sử dụng noãn hiến tặng, môi trường trong nội mạc tử cung mang tính sinh lý hơn (nồng độ nội tiết không tăng cao như trong các chu kì kích thích buồng trứng), do đó việc đánh giá tác động của trữ rã đến sự phát triển của phôi từ noãn hiến tặng và tỷ lệ thành công IVF ở người được cho là hướng nghiên cứu hấp dẫn.
Ngày nay, chỉ định sử dụng noãn hiến tặng khi phụ nữ có dự trữ buồng trứng thấp, các bệnh lý di truyền không nên sử dụng noãn tự thân. Kỹ thuật trữ đông noãn được Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ coi là thử nghiệm cho đến mùa thu năm 2012. Vào thời điểm đó, đã có 7 ngân hàng noãn thương mại tồn tại và 8.780 noãn của người hiến tặng được trữ đông đã được sử dụng, có đến 602 trường hợp mang thai. Có thể thấy, nhu cầu sử dụng noãn hiến tặng là một giải pháp cho những phụ nữ không thể sử dụng noãn tự thân, và kết quả điều trị giữa noãn tươi hay noãn trữ lạnh đang ngày càng được quan tâm.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tỉ lệ trẻ sinh sống ở hai nhóm sử dụng noãn hiến tươi và noãn hiến đông lạnh.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu đoàn hệ trên 24.663 chu kỳ chuyển phôi tươi sử dụng noãn hiến tặng từ 2014 đến 2016, tại Hoa Kỳ. Kết cục chính của nghiên cứu là kết quả chuyển phôi tươi ngày 5 từ giữa noãn tươi và noãn rã đông. Kết cục phụ là số trẻ sinh sống trên mỗi lần chuyển phôi, số phôi đủ điều kiện đông lạnh và chất lượng noãn thu được.
Kết quả
Tổng cộng có 16073 phôi chuyển từ noãn tươi và 8590 phôi từ noãn trữ đông. Tuổi của người nhận, chỉ số khối cơ thể (BMI), tính tương đương giữa các nhóm là tương tự nhau. Hầu hết những người nhận là người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha (66,9%), tiếp theo là người châu Á (13,7%), người da đen không phải gốc Tây Ban Nha (9,3%) và người gốc Tây Ban Nha (7,2%).
Kết quả cho thấy nhóm noãn tươi có số bệnh nhân lựa chọn chuyển đơn phôi (42,5% so với 37,8%) hoặc chuyển hai phôi (53,2% so với 50,4%) cao hơn so với nhóm đông lạnh. Từ đó, nhóm sử dụng noãn tươi có nhiều phôi dư hơn để trữ đông (4,6 so với 1,2). Tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm noãn tươi (57,5%) cao hơn so với nhóm noãn trữ đông (49,7%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Một phát hiện khác cần lưu ý là tuổi người hiến tặng noãn. Tuổi trung bình của người cho noãn là 26 đối với noãn tươi và 25,8 đối với noãn đông lạnh, tỷ lệ chuyển hai phôi trong các chu kỳ chuyển phôi tươi chiếm hơn 50%. Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ đa thai cao. Cụ thể, tỷ lệ đa thai cao hơn trong các chu kỳ sử dụng noãn tươi (26,4%) so với noãn trữ đông (20,6%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tỷ lệ sẩy thai ở nhóm noãn tươi thấp hơn nhóm noãn trữ, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (12,3% so với 13,4%, p=0,01). Cân nặng của trẻ ở nhóm noãn tươi thấp hơn so với noãn trữ đông, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (2,828±764 so với 2,877±768, p<0,001).
Nghiên cứu có điểm mạnh là sử dụng tỉ lệ trẻ sinh sống là kết quả chính cũng như cỡ mẫu lớn. Ngoài ra, việc lựa chọn tiêu chuẩn đầu vào ở nhóm chu kỳ chuyển phôi tươi đã loại bỏ tác động của việc trữ lạnh và rã đông phôi có thể tác động đến kết quả điều trị. Ngoài ra, việc giới hạn phân tích đối với chuyển phôi tươi đã loại bỏ bất kỳ tác động gây nhiễu nào mà việc trữ đông phôi có thể gây ra đối với tỷ lệ sinh sống. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng có hạn chế là nghiên cứu hồi cứu.
Kết luận
Tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn khoảng 6-8% khi sử dụng noãn tươi so với noãn đông lạnh ở những chu kỳ chuyển phôi tươi. Chuyển hai phôi thường phổ biến ở nhóm sử dụng noãn hiến tặng, do yếu tố tâm lý dẫn đến nhóm này thường có tỷ lệ đa thai cao.
Nguồn: Whynott, R. M., Summers, K. M., Ball, G. D., Van Voorhis, B. J., & Sparks, A. (2022). Fresh embryo transfer after in vitro insemination of fresh vs. cryopreserved anonymous donor oocytes: which has a better live birth rate? A Society for Assisted Reproductive Technology Clinic Outcome Reporting System analysis. Fertility and sterility, 117(4), 803-810.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Báo cáo một trường hợp trẻ sinh sống khoẻ mạnh từ phôi có kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ là “hỗn loạn” - Ngày đăng: 18-05-2023
Giãn tĩnh mạch thừng tinh liên quan vô sinh và vai trò của stress oxy hóa với phân mảnh dna tinh trùng - Ngày đăng: 16-05-2023
Micro-TESE so với TESE thông thường đối với nam giới bị vô tinh không do tắc - Ngày đăng: 16-05-2023
Giãn tĩnh mạch thừng tinh và vô sinh nam: khía cạnh lịch sử, giải phẫu và tiết niệu - Ngày đăng: 16-05-2023
Ảnh hưởng của kích thích buồng trứng đến tỷ lệ phôi lệch bội và tỷ lệ phôi khảm - Ngày đăng: 24-04-2023
Sử dụng tinh trùng từ bảo quản lạnh không ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống ở các chu kỳ có yếu tố nam bình thường - Phân tích trên 7969 chu kỳ với noãn hiến - Ngày đăng: 17-04-2023
Tuổi của người cha có phải là một yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống trong các chu kỳ xin noãn? Một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 17-04-2023
Một phương pháp mới để xử lý phôi bị nhiễm khuẩn trong quá trình nuôi cấy - Ngày đăng: 14-04-2023
So sánh kết quả phát triển phôi sau khi kéo dài thời gian nuôi cấy phôi đến ngày 6: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 10-04-2023
Một nghiên cứu theo dõi 10 - 15 năm trên nhóm trữ lạnh noãn chủ động khi họ quyết định quay trở lại sử dụng - Ngày đăng: 05-04-2023
Hiệu quả sử dụng và hiệu quả chi phí của việc trữ lạnh noãn chủ động - Ngày đăng: 05-04-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK