Tin tức
on Monday 22-05-2023 10:32am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Tăng Lê Thái Ngọc – IVFMD Tân Bình
Giới thiệu chung
U xơ là khối u lành tính phổ biến nhất ở đường sinh dục của phụ nữ, với tỉ lệ mắc phải lên đến 40% trong độ tuổi sinh sản. Phần lớn phụ nữ bị u xơ tử cung thường không có triệu chứng và chỉ khoảng 25% phụ nữ có các triệu chứng bao gồm chảy máu tử cung bất thường, đau vùng hạ vị và khó chịu. Về ảnh hưởng của u xơ, những chứng cứ y văn mức độ thấp cho thấy u xơ tử cung có tác động bất lợi đối với khả năng sinh sản tự nhiên của phụ nữ. Một phân tích gộp gần đây cũng đã báo cáo tỉ lệ xuất hiện u xơ tăng gấp 3,5 lần ở phụ nữ có khả năng sinh sản kém khi so sánh với phụ nữ có khả năng sinh sản bình thường. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có về chủ đề trên còn gặp nhiều hạn chế và vẫn còn thiếu bằng chứng thuyết phục về mối quan hệ giữa u xơ và vô sinh. Trong đó, tuổi của phụ nữ là yếu tố gây nhiễu chính trong các nghiên cứu trên do tỉ lệ u xơ tử cung và vô sinh tăng lên khi phụ nữ ngày một lớn tuổi. Ngoài ra, các triệu chứng và tác động bất lợi tiềm ẩn của u xơ đối với khả năng sinh sản tự nhiên và kết quả IVF còn có thể bị ảnh hưởng bởi kích thước, vị trí và số lượng của chúng.
Ở những phụ nữ trải qua IVF, sự hiện diện của u xơ dưới niêm mạc tử cung đã được báo cáo là có liên quan đến tỉ lệ sẩy thai (MR) cao hơn và tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) thấp hơn khi so sánh với những phụ nữ không có u xơ. Mặt khác, không có tác động có hại nào của u xơ dưới thanh mạc đối với LBR đã được báo cáo trong IVF. Về mặt lý thuyết, u xơ lớn, nhiều và biến dạng buồng tử cung được cho là gây nên tác động bất lợi hơn đối với phôi được chuyển vào buồng tử cung so với u xơ nhỏ, đơn lẻ và không làm biến dạng buồng tử cung. Tác động bất lợi của u xơ đối với khả năng sinh sản trước đây được cho là mang tính cơ học và liên quan chặt chẽ đến kích thước và vị trí của chúng. Tuy nhiên, nhận định này đã bị thách thức bởi các nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung vẫn có thể bị thay đổi ngay cả với u xơ nội mạc tử cung không gây biến dạng buồng tử cung do giảm biểu hiện của các yếu tố quan trọng cho quá trình làm tổ, bao gồm gen A10 thuộc họ homeobox, glycodelin, yếu tố ức chế bạch cầu (LIF), E-cadherin và matrix metallicoproteinase. Yếu tố tăng trưởng β3 (TGF-β3) được tạo ra từ u xơ cũng có thể làm giảm biểu hiện của BMP-2, HOXA10 và LIF, dẫn đến khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung bị thay đổi. Do đó, ngay cả những u xơ nhỏ trong thành không gây biến dạng buồng tử cung và nằm khu trú vẫn có thể gây nên những tác động xấu đối với khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung. Tuy nhiên cho đến nay, định nghĩa về kích thước nhỏ của các khối u xơ vẫn chưa được thống nhất. Một số tác giả chọn 6 cm, trong khi những tác giả khác chọn ngưỡng 4 cm hoặc 2 cm là giới hạn để mô tả khối u xơ nhỏ. Ngoài ra, kết quả từ các nghiên cứu về tác động của u xơ tử cung không gây biến dạng buồng tử cung đối với kết quả IVF vẫn còn nhiều tranh cãi do một số nghiên cứu báo cáo về tác động bất lợi, trong khi những tài liệu y văn khác lại không cho thấy tác động bất lợi như vậy. Hơn thế nữa, cho đến nay vẫn không có phân tích tổng hợp nào về mối quan hệ của kích thước, vị trí và số lượng u xơ tử cung đến kết cục IVF. Do đó, nhóm tác giả đã thực hiện phân tích gộp trên để làm rõ tác động của kích thước, vị trí và số lượng u xơ tử cung không gây biến dạng buồng tử cung đối với kết quả sinh sản ở phụ nữ trải qua IVF so với nhóm đối chứng là những phụ nữ có cùng độ tuổi và không mắc u xơ tử cung.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định xem những phụ nữ có u xơ trong thành tử cung, không gây biến dạng buồng tử cung có kích thước ≤6 cm có tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) sau IVF thấp hơn so với những phụ nữ cùng độ tuổi không có u xơ hay không. Dữ liệu của nghiên cứu được thu nhận từ các cơ sở dữ liệu của MEDLINE, Embase, Global Health và Cochrane Library. Những phụ nữ trải qua IVF với u xơ trong thành ≤6 cm, không gây biến dạng buồng tử cung được đưa vào nhóm nghiên cứu (n = 520), trong khi phụ nữ không có u xơ được đưa vào nhóm đối chứng (n = 1392).
Các phân tích phân nhóm phù hợp với độ tuổi cũng được thực hiện để đánh giá tác động của các giới hạn khác nhau đối với kích thước (≤6, ≤4 và ≤2 cm), vị trí và số lượng u xơ đến kết quả sinh sản. Tỉ lệ chênh lệch Mantel–Haenszel (OR) với khoảng tin cậy 95% được sử dụng để đo lường kết quả. Tất cả các phân tích thống kê được thực hiện bằng RevMan 5.4.1 với kết quả chính là LBR và các kết quả phụ bao gồm tỉ lệ thai lâm sàng, làm tổ và sẩy thai.
Kết quả nghiên cứu
Có 5 nghiên cứu đã được đưa vào phân tích cuối cùng. Phụ nữ có u xơ trong thành ≤6 cm không gây biến dạng buồng tử cung có LBR thấp hơn đáng kể (OR: 0,48, KTC 95%: 0,36–0,65, 3 nghiên cứu, I2=0; bằng chứng có độ chắc chắn thấp) so với phụ nữ không có u xơ. Ngoài ra, LBR giảm đáng kể đã được ghi nhận ở nhóm có u xơ ≤4 cm nhưng không phải ở các phân nhóm ≤2 cm. Các u xơ tử cung FIGO 3 có kích thước 2–6 cm có liên quan đến LBR thấp hơn đáng kể. Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu được nhận hạn chế dẫn đến không thể đánh giá tác động của số lượng u xơ trong thành không gây biến dạng buồng tử cung (đơn u xơ so với đa u xơ) đối với kết quả IVF.
Kết luận
U xơ tử cung có kích thước 2–6 cm không gây biến dạng buồng tử cung có ảnh hưởng xấu đến LBR trong IVF. Ngoài ra, sự hiện diện của u xơ tử cung FIGO 3 có kích thước 2–6 cm có liên quan đến LBR thấp hơn đáng kể. Nhóm tác giả cũng cho rằng cần thêm các bằng chứng thuyết phục từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng chất lượng cao với thiết kế nghiên cứu tiêu chuẩn trước khi phẫu thuật cắt bỏ nhân xơ có thể được áp dụng trong thực hành lâm sàng hàng ngày cho những phụ nữ bị u xơ tử cung nhỏ trước khi điều trị IVF.
Tài liệu tham khảo
Erden, M., Uyanik, E., Polat, M., Ozbek, I. Y., Yarali, H., & Mumusoglu, S. (2023). The effect of ≤6 cm sized non-cavity-distorting intramural fibroids on in-vitro fertilization outcomes: A systematic review and meta-analysis. Fertility and Sterility.
Giới thiệu chung
U xơ là khối u lành tính phổ biến nhất ở đường sinh dục của phụ nữ, với tỉ lệ mắc phải lên đến 40% trong độ tuổi sinh sản. Phần lớn phụ nữ bị u xơ tử cung thường không có triệu chứng và chỉ khoảng 25% phụ nữ có các triệu chứng bao gồm chảy máu tử cung bất thường, đau vùng hạ vị và khó chịu. Về ảnh hưởng của u xơ, những chứng cứ y văn mức độ thấp cho thấy u xơ tử cung có tác động bất lợi đối với khả năng sinh sản tự nhiên của phụ nữ. Một phân tích gộp gần đây cũng đã báo cáo tỉ lệ xuất hiện u xơ tăng gấp 3,5 lần ở phụ nữ có khả năng sinh sản kém khi so sánh với phụ nữ có khả năng sinh sản bình thường. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có về chủ đề trên còn gặp nhiều hạn chế và vẫn còn thiếu bằng chứng thuyết phục về mối quan hệ giữa u xơ và vô sinh. Trong đó, tuổi của phụ nữ là yếu tố gây nhiễu chính trong các nghiên cứu trên do tỉ lệ u xơ tử cung và vô sinh tăng lên khi phụ nữ ngày một lớn tuổi. Ngoài ra, các triệu chứng và tác động bất lợi tiềm ẩn của u xơ đối với khả năng sinh sản tự nhiên và kết quả IVF còn có thể bị ảnh hưởng bởi kích thước, vị trí và số lượng của chúng.
Ở những phụ nữ trải qua IVF, sự hiện diện của u xơ dưới niêm mạc tử cung đã được báo cáo là có liên quan đến tỉ lệ sẩy thai (MR) cao hơn và tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) thấp hơn khi so sánh với những phụ nữ không có u xơ. Mặt khác, không có tác động có hại nào của u xơ dưới thanh mạc đối với LBR đã được báo cáo trong IVF. Về mặt lý thuyết, u xơ lớn, nhiều và biến dạng buồng tử cung được cho là gây nên tác động bất lợi hơn đối với phôi được chuyển vào buồng tử cung so với u xơ nhỏ, đơn lẻ và không làm biến dạng buồng tử cung. Tác động bất lợi của u xơ đối với khả năng sinh sản trước đây được cho là mang tính cơ học và liên quan chặt chẽ đến kích thước và vị trí của chúng. Tuy nhiên, nhận định này đã bị thách thức bởi các nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung vẫn có thể bị thay đổi ngay cả với u xơ nội mạc tử cung không gây biến dạng buồng tử cung do giảm biểu hiện của các yếu tố quan trọng cho quá trình làm tổ, bao gồm gen A10 thuộc họ homeobox, glycodelin, yếu tố ức chế bạch cầu (LIF), E-cadherin và matrix metallicoproteinase. Yếu tố tăng trưởng β3 (TGF-β3) được tạo ra từ u xơ cũng có thể làm giảm biểu hiện của BMP-2, HOXA10 và LIF, dẫn đến khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung bị thay đổi. Do đó, ngay cả những u xơ nhỏ trong thành không gây biến dạng buồng tử cung và nằm khu trú vẫn có thể gây nên những tác động xấu đối với khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung. Tuy nhiên cho đến nay, định nghĩa về kích thước nhỏ của các khối u xơ vẫn chưa được thống nhất. Một số tác giả chọn 6 cm, trong khi những tác giả khác chọn ngưỡng 4 cm hoặc 2 cm là giới hạn để mô tả khối u xơ nhỏ. Ngoài ra, kết quả từ các nghiên cứu về tác động của u xơ tử cung không gây biến dạng buồng tử cung đối với kết quả IVF vẫn còn nhiều tranh cãi do một số nghiên cứu báo cáo về tác động bất lợi, trong khi những tài liệu y văn khác lại không cho thấy tác động bất lợi như vậy. Hơn thế nữa, cho đến nay vẫn không có phân tích tổng hợp nào về mối quan hệ của kích thước, vị trí và số lượng u xơ tử cung đến kết cục IVF. Do đó, nhóm tác giả đã thực hiện phân tích gộp trên để làm rõ tác động của kích thước, vị trí và số lượng u xơ tử cung không gây biến dạng buồng tử cung đối với kết quả sinh sản ở phụ nữ trải qua IVF so với nhóm đối chứng là những phụ nữ có cùng độ tuổi và không mắc u xơ tử cung.
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định xem những phụ nữ có u xơ trong thành tử cung, không gây biến dạng buồng tử cung có kích thước ≤6 cm có tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) sau IVF thấp hơn so với những phụ nữ cùng độ tuổi không có u xơ hay không. Dữ liệu của nghiên cứu được thu nhận từ các cơ sở dữ liệu của MEDLINE, Embase, Global Health và Cochrane Library. Những phụ nữ trải qua IVF với u xơ trong thành ≤6 cm, không gây biến dạng buồng tử cung được đưa vào nhóm nghiên cứu (n = 520), trong khi phụ nữ không có u xơ được đưa vào nhóm đối chứng (n = 1392).
Các phân tích phân nhóm phù hợp với độ tuổi cũng được thực hiện để đánh giá tác động của các giới hạn khác nhau đối với kích thước (≤6, ≤4 và ≤2 cm), vị trí và số lượng u xơ đến kết quả sinh sản. Tỉ lệ chênh lệch Mantel–Haenszel (OR) với khoảng tin cậy 95% được sử dụng để đo lường kết quả. Tất cả các phân tích thống kê được thực hiện bằng RevMan 5.4.1 với kết quả chính là LBR và các kết quả phụ bao gồm tỉ lệ thai lâm sàng, làm tổ và sẩy thai.
Kết quả nghiên cứu
Có 5 nghiên cứu đã được đưa vào phân tích cuối cùng. Phụ nữ có u xơ trong thành ≤6 cm không gây biến dạng buồng tử cung có LBR thấp hơn đáng kể (OR: 0,48, KTC 95%: 0,36–0,65, 3 nghiên cứu, I2=0; bằng chứng có độ chắc chắn thấp) so với phụ nữ không có u xơ. Ngoài ra, LBR giảm đáng kể đã được ghi nhận ở nhóm có u xơ ≤4 cm nhưng không phải ở các phân nhóm ≤2 cm. Các u xơ tử cung FIGO 3 có kích thước 2–6 cm có liên quan đến LBR thấp hơn đáng kể. Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu được nhận hạn chế dẫn đến không thể đánh giá tác động của số lượng u xơ trong thành không gây biến dạng buồng tử cung (đơn u xơ so với đa u xơ) đối với kết quả IVF.
Kết luận
U xơ tử cung có kích thước 2–6 cm không gây biến dạng buồng tử cung có ảnh hưởng xấu đến LBR trong IVF. Ngoài ra, sự hiện diện của u xơ tử cung FIGO 3 có kích thước 2–6 cm có liên quan đến LBR thấp hơn đáng kể. Nhóm tác giả cũng cho rằng cần thêm các bằng chứng thuyết phục từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng chất lượng cao với thiết kế nghiên cứu tiêu chuẩn trước khi phẫu thuật cắt bỏ nhân xơ có thể được áp dụng trong thực hành lâm sàng hàng ngày cho những phụ nữ bị u xơ tử cung nhỏ trước khi điều trị IVF.
Tài liệu tham khảo
Erden, M., Uyanik, E., Polat, M., Ozbek, I. Y., Yarali, H., & Mumusoglu, S. (2023). The effect of ≤6 cm sized non-cavity-distorting intramural fibroids on in-vitro fertilization outcomes: A systematic review and meta-analysis. Fertility and Sterility.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Dự đoán trẻ sinh sống từ chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi nang có nguồn gốc từ 1PN: mối tương quan giữa chất lượng phôi tổng thể, ICM, TE và độ nở rộng khoang phôi - Ngày đăng: 18-05-2023
Tiềm năng phát triển của noãn mi trưởng thành muộn sau chọc hút - Ngày đăng: 18-05-2023
Nghiên cứu sơ bộ đầu tiên về chuyển thoi vô sắc để điều trị các trường hợp vô sinh nguyên phát thực hiện IVF thất bại nhiều lần - Ngày đăng: 18-05-2023
So sánh tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm xin noãn trong chu kỳ chuyển phôi tươi giữa nhóm sử dụng noãn tươi và noãn rã đông - Ngày đăng: 18-05-2023
Báo cáo một trường hợp trẻ sinh sống khoẻ mạnh từ phôi có kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ là “hỗn loạn” - Ngày đăng: 18-05-2023
Giãn tĩnh mạch thừng tinh liên quan vô sinh và vai trò của stress oxy hóa với phân mảnh dna tinh trùng - Ngày đăng: 16-05-2023
Micro-TESE so với TESE thông thường đối với nam giới bị vô tinh không do tắc - Ngày đăng: 16-05-2023
Giãn tĩnh mạch thừng tinh và vô sinh nam: khía cạnh lịch sử, giải phẫu và tiết niệu - Ngày đăng: 16-05-2023
Ảnh hưởng của kích thích buồng trứng đến tỷ lệ phôi lệch bội và tỷ lệ phôi khảm - Ngày đăng: 24-04-2023
Sử dụng tinh trùng từ bảo quản lạnh không ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống ở các chu kỳ có yếu tố nam bình thường - Phân tích trên 7969 chu kỳ với noãn hiến - Ngày đăng: 17-04-2023
Tuổi của người cha có phải là một yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống trong các chu kỳ xin noãn? Một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 17-04-2023
Một phương pháp mới để xử lý phôi bị nhiễm khuẩn trong quá trình nuôi cấy - Ngày đăng: 14-04-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK