Tin tức
on Friday 07-07-2023 1:13pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFMD, bệnh viện Mỹ Đức Tân Bình
Các phương pháp điều trị vô sinh ngày càng được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới để giúp các cặp vợ chồng mang thai và xây dựng gia đình. Các phương pháp điều trị này bao gồm công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology - ART), một thuật ngữ bao gồm việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI), cũng như các lựa chọn ít xâm lấn khác như bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine insemination - IUI). Người ta ước tính rằng 12,7% phụ nữ ở Hoa Kỳ trong độ tuổi từ 15 đến 49 đã sử dụng một số hình thức ART để có thai từ năm 2015 đến 2017. Việc sử dụng các phương pháp điều trị này cao nhất ở những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nhưng lớn tuổi do trì hoãn sinh con.
Việc thực hiện ART để điều trị vô sinh có thể làm tăng nguy cơ thai nhỏ so với tuổi thai (Small for gestational age - SGA), nhưng dữ liệu vẫn còn nhiều mâu thuẫn. So với các trẻ khác, trẻ sơ sinh bị SGA có nguy cơ mắc bệnh và tử vong cao hơn. Trong một nghiên cứu bao gồm hơn 2 triệu ca sinh, trẻ sơ sinh từ ART có kết quả bất lợi tăng lên, như tỷ lệ trẻ SGA tăng 13% (tỷ lệ chênh lệch, 1,13; khoảng tin cậy 95% [CI], 1,10– 1,15). Tuy nhiên, các dữ liệu khác cho thấy rằng những trường hợp thực hiện ART không có nguy cơ mắc SGA cao hơn hoặc chỉ có nguy cơ mắc bệnh này ở mức tối thiểu, chỉ tăng nhẹ so với những ca mang thai tự nhiên.
Thực hành lâm sàng về vô sinh đã phát triển đáng kể kể từ khi các phương pháp điều trị được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu những năm 1980, và có một số biến gây nhiễu liên quan đến việc sử dụng các biện pháp can thiệp này khiến cho việc phân tích kết quả chu sinh trở nên khó khăn.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra mối tương quan giữa việc thực hiện các biện pháp ART và nguy cơ thai nhỏ so với tuổi thai.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang thực hiện 16.836.228 trường hợp các bà mẹ sinh một trẻ không dị tật từ năm 2015-2019 tại Hoa Kỳ. Nhóm SGA được định nghĩa là nhóm sinh trẻ kích thước nhỏ hơn 10% so với tuổi thai.
Kết quả
Có 1,4% trường hợp mang thai thực hiện điều trị vô sinh (n=231.177). Tỷ lệ sinh SGA xảy ra lần lượt là 9,4% (n = 21.771) và 11,9% (n = 1.755.925) ở mang thai được thụ thai nhờ điều trị ART và tự nhiên (RR điều chỉnh, 1,07; KTC 95%, 1,06, 1,08). Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh sai lệch do phân loại sai và gây nhiễu không đo lường được, điều trị vô sinh có liên quan đến việc giảm 27% nguy cơ SGA (RR điều chỉnh sai lệch, 0,73; KTC 95%, 0,53, 0,85). Xu hướng tương tự đã được nhìn thấy đối với các phân tích được phân tầng do điều trị bằng ART và thuốc tăng cường khả năng sinh sản, SGA lần lượt là < bách phân vị thứ 5 và < bách phân vị thứ 3.
Bàn luận
Nhóm tác giả nhận thấy rằng những phụ nữ có thai bằng phương pháp điều trị vô sinh đã giảm nguy cơ SGA so với những người mang thai tự nhiên. Mặc dù các phân tích được điều chỉnh ban đầu cho thấy nguy cơ sinh SGA tăng nhẹ, nhưng việc điều chỉnh sai lệch phân loại sai và các biến gây nhiễu không đo lường được đã xác định được tác dụng bảo vệ.
Một trong những điểm mạnh chính của nghiên cứu của là việc sử dụng cơ sở dữ liệu rất lớn bao gồm tất cả các ca sinh ở Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 5 năm gần đây. Điều này cho phép xác định các sắc thái cụ thể trong dữ liệu có thể không được nhìn thấy với dân số nghiên cứu nhỏ hơn.
Nghiên cứu cũng có một số hạn chế, trong đó đáng kể nhất là tất cả các thông tin thu thập được về điều trị vô sinh đều dựa vào bệnh nhân tự báo cáo và ghi chép chính xác của nhân viên bệnh viện tại thời điểm sinh. Một nghiên cứu kiểm chứng so sánh báo cáo giấy khai sinh với cơ sở dữ liệu SART CORS, bao gồm hơn 95% tất cả các chu kỳ IVF được thực hiện ở Hoa Kỳ, đã chứng minh rằng Hệ thống thống kê quan trọng của Hoa Kỳ báo cáo thiếu thông tin liên quan đến điều trị vô sinh của bệnh nhân. Họ phát hiện ra rằng chỉ có 36,5% số ca sinh của trẻ IVF được xác định trong giấy khai sinh. Mặc dù số liệu thống kê quốc gia cho biết khoảng 12,7% phụ nữ Hoa Kỳ trong độ tuổi 15–49 sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sinh sản để thụ thai, nhưng chỉ có 1,4% phụ nữ trong nghiên cứu của nhóm nghiên cứu báo cáo rằng họ được điều trị vô sinh. Nhóm nghiên cứu đã cố gắng giải thích cho sự khác biệt này thông qua hiệu chỉnh sai lệch phân loại sai được thực hiện trong phân tích của tác giả.
Cho đến khi các nghiên cứu dựa trên dân số lớn chứng thực các mối liên hệ này, những phát hiện trong nghiên cứu trên nên được giải thích một cách thận trọng.
Kết luận
Việc các người mẹ thực hiện điều trị vô sinh có liên quan đến việc giảm nguy cơ sinh SGA. Những phát hiện này trái ngược với một số báo cáo đã công bố trước đó, có thể phản ánh những thay đổi trong thực hành lâm sàng hiện đại về chăm sóc vô sinh, lối sống của người mẹ và việc tuân thủ chế độ dinh dưỡng, tập luyện trước khi sinh trong quần thể vô sinh.
Nguồn: Glatthorn, H. N., Sauer, M. V., Brandt, J. S., & Ananth, C. V. (2021). Infertility treatment and the risk of small for gestational age births: a population-based study in the United States. F&S Reports, 2(4), 413-420.
Các phương pháp điều trị vô sinh ngày càng được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới để giúp các cặp vợ chồng mang thai và xây dựng gia đình. Các phương pháp điều trị này bao gồm công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology - ART), một thuật ngữ bao gồm việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI), cũng như các lựa chọn ít xâm lấn khác như bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine insemination - IUI). Người ta ước tính rằng 12,7% phụ nữ ở Hoa Kỳ trong độ tuổi từ 15 đến 49 đã sử dụng một số hình thức ART để có thai từ năm 2015 đến 2017. Việc sử dụng các phương pháp điều trị này cao nhất ở những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nhưng lớn tuổi do trì hoãn sinh con.
Việc thực hiện ART để điều trị vô sinh có thể làm tăng nguy cơ thai nhỏ so với tuổi thai (Small for gestational age - SGA), nhưng dữ liệu vẫn còn nhiều mâu thuẫn. So với các trẻ khác, trẻ sơ sinh bị SGA có nguy cơ mắc bệnh và tử vong cao hơn. Trong một nghiên cứu bao gồm hơn 2 triệu ca sinh, trẻ sơ sinh từ ART có kết quả bất lợi tăng lên, như tỷ lệ trẻ SGA tăng 13% (tỷ lệ chênh lệch, 1,13; khoảng tin cậy 95% [CI], 1,10– 1,15). Tuy nhiên, các dữ liệu khác cho thấy rằng những trường hợp thực hiện ART không có nguy cơ mắc SGA cao hơn hoặc chỉ có nguy cơ mắc bệnh này ở mức tối thiểu, chỉ tăng nhẹ so với những ca mang thai tự nhiên.
Thực hành lâm sàng về vô sinh đã phát triển đáng kể kể từ khi các phương pháp điều trị được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu những năm 1980, và có một số biến gây nhiễu liên quan đến việc sử dụng các biện pháp can thiệp này khiến cho việc phân tích kết quả chu sinh trở nên khó khăn.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra mối tương quan giữa việc thực hiện các biện pháp ART và nguy cơ thai nhỏ so với tuổi thai.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang thực hiện 16.836.228 trường hợp các bà mẹ sinh một trẻ không dị tật từ năm 2015-2019 tại Hoa Kỳ. Nhóm SGA được định nghĩa là nhóm sinh trẻ kích thước nhỏ hơn 10% so với tuổi thai.
Kết quả
Có 1,4% trường hợp mang thai thực hiện điều trị vô sinh (n=231.177). Tỷ lệ sinh SGA xảy ra lần lượt là 9,4% (n = 21.771) và 11,9% (n = 1.755.925) ở mang thai được thụ thai nhờ điều trị ART và tự nhiên (RR điều chỉnh, 1,07; KTC 95%, 1,06, 1,08). Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh sai lệch do phân loại sai và gây nhiễu không đo lường được, điều trị vô sinh có liên quan đến việc giảm 27% nguy cơ SGA (RR điều chỉnh sai lệch, 0,73; KTC 95%, 0,53, 0,85). Xu hướng tương tự đã được nhìn thấy đối với các phân tích được phân tầng do điều trị bằng ART và thuốc tăng cường khả năng sinh sản, SGA lần lượt là < bách phân vị thứ 5 và < bách phân vị thứ 3.
Bàn luận
Nhóm tác giả nhận thấy rằng những phụ nữ có thai bằng phương pháp điều trị vô sinh đã giảm nguy cơ SGA so với những người mang thai tự nhiên. Mặc dù các phân tích được điều chỉnh ban đầu cho thấy nguy cơ sinh SGA tăng nhẹ, nhưng việc điều chỉnh sai lệch phân loại sai và các biến gây nhiễu không đo lường được đã xác định được tác dụng bảo vệ.
Một trong những điểm mạnh chính của nghiên cứu của là việc sử dụng cơ sở dữ liệu rất lớn bao gồm tất cả các ca sinh ở Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 5 năm gần đây. Điều này cho phép xác định các sắc thái cụ thể trong dữ liệu có thể không được nhìn thấy với dân số nghiên cứu nhỏ hơn.
Nghiên cứu cũng có một số hạn chế, trong đó đáng kể nhất là tất cả các thông tin thu thập được về điều trị vô sinh đều dựa vào bệnh nhân tự báo cáo và ghi chép chính xác của nhân viên bệnh viện tại thời điểm sinh. Một nghiên cứu kiểm chứng so sánh báo cáo giấy khai sinh với cơ sở dữ liệu SART CORS, bao gồm hơn 95% tất cả các chu kỳ IVF được thực hiện ở Hoa Kỳ, đã chứng minh rằng Hệ thống thống kê quan trọng của Hoa Kỳ báo cáo thiếu thông tin liên quan đến điều trị vô sinh của bệnh nhân. Họ phát hiện ra rằng chỉ có 36,5% số ca sinh của trẻ IVF được xác định trong giấy khai sinh. Mặc dù số liệu thống kê quốc gia cho biết khoảng 12,7% phụ nữ Hoa Kỳ trong độ tuổi 15–49 sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sinh sản để thụ thai, nhưng chỉ có 1,4% phụ nữ trong nghiên cứu của nhóm nghiên cứu báo cáo rằng họ được điều trị vô sinh. Nhóm nghiên cứu đã cố gắng giải thích cho sự khác biệt này thông qua hiệu chỉnh sai lệch phân loại sai được thực hiện trong phân tích của tác giả.
Cho đến khi các nghiên cứu dựa trên dân số lớn chứng thực các mối liên hệ này, những phát hiện trong nghiên cứu trên nên được giải thích một cách thận trọng.
Kết luận
Việc các người mẹ thực hiện điều trị vô sinh có liên quan đến việc giảm nguy cơ sinh SGA. Những phát hiện này trái ngược với một số báo cáo đã công bố trước đó, có thể phản ánh những thay đổi trong thực hành lâm sàng hiện đại về chăm sóc vô sinh, lối sống của người mẹ và việc tuân thủ chế độ dinh dưỡng, tập luyện trước khi sinh trong quần thể vô sinh.
Nguồn: Glatthorn, H. N., Sauer, M. V., Brandt, J. S., & Ananth, C. V. (2021). Infertility treatment and the risk of small for gestational age births: a population-based study in the United States. F&S Reports, 2(4), 413-420.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên quan giữa cân nặng khi sinh của trẻ với tình trạng béo phì của cha mẹ: nghiên cứu hồi cứu trên 1.778 trẻ sinh đủ tháng sau khi điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 07-07-2023
Nguy cơ sinh non sau sảy thai liên tiếp: tổng quan hệ thống và phân tích cộng gộp - Ngày đăng: 07-07-2023
Những tiến bộ trong nghiên cứu các yếu tố di truyền và can thiệp lâm sàng đối với trường hợp thất bại thụ tinh - Ngày đăng: 07-07-2023
Kết cục lâm sàng của phôi nang đông lạnh từ hợp tử 0PN hoặc 1PN trong chu kì IVF và ICSI - Ngày đăng: 07-07-2023
So sánh các kết quả lâm sàng giữa hai thời điểm sinh thiết phôi nang (trước hay sau đông lạnh) của các chu kỳ chuyển phôi trữ kết hợp PGT-A. - Ngày đăng: 07-07-2023
Ảnh hưởng của tăng bạch cầu bất thường trong tinh dịch lên kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 07-07-2023
Ảnh hưởng của sự phát triển và rụng trứng ngoài dự kiến trong các chu kỳ nhân tạo: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu về chuyển đơn phôi nang đông lạnh - Ngày đăng: 07-07-2023
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) so với thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (cIVF) ở những bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam - Ngày đăng: 26-06-2023
Lạc nội mạc tử cung và Adenomyosis có cùng sinh lý bệnh - Ngày đăng: 26-06-2023
Có nên trì hoãn chuyển phôi trữ lạnh ở chu kỳ ngay sau khi chọc hút trứng hay không? - Ngày đăng: 22-06-2023
Xác suất tìm thấy tinh tử tròn ở nam giới vô tinh không do tắc nghẽn - Ngày đăng: 21-06-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK