Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 07-07-2023 1:12pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFMD, bệnh viện Mỹ Đức Tân Bình
 
Béo phì là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng, với tỉ lệ béo phì tăng gấp 3 lần trong 40 năm qua. Một phân tích có hệ thống toàn cầu cho thấy đàn ông và phụ nữ đều tăng cân ở tất cả các nhóm tuổi, với tốc độ tăng nhanh nhất xảy ra trong những giai đoạn chính của độ tuổi sinh sản (20 - 40 tuổi). Năm 2014, ước tính có 38,9 triệu phụ nữ mang thai bị thừa cân và 14,6 triệu người được ước tính bị béo phì.
 
Nghiên cứu cho thấy chỉ số BMI trước khi mang thai của người mẹ có tác động đáng kể đến cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh và điều này không phân biệt là các cặp vợ chồng thụ thai tự nhiên hay thông qua kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology - ART). Ở những quần thể không điều trị ART, tình trạng mẹ thừa cân hoặc béo phì làm tăng khả năng trẻ sinh ra to hơn so với tuổi thai. Ở những phụ nữ cần điều trị ART, cả tình trạng thiếu cân và béo phì của mẹ đều có liên quan đến tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân.
 
Tuy nhiên, tác động tiềm ẩn của chỉ số BMI của người cha hiếm khi được xem xét trong các nghiên cứu này, mặc dù có một số ít bằng chứng cho thấy rằng thừa cân và béo phì theo định kiến của người cha cũng có thể góp phần vào cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh. Hơn nữa, bằng chứng về sự tương tác giữa tình trạng béo phì trước khi thụ thai của cha mẹ và cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh không thể phân biệt được từ các nghiên cứu hiện có, do béo phì có xu hướng tập hợp trong các đơn vị gia đình nên các bà mẹ béo phì thường có bạn đời béo phì. Một nghiên cứu bao gồm 2.980 bộ ba cha mẹ và con cái đã báo cáo rằng chỉ số BMI của mẹ là một yếu tố dự báo mạnh mẽ hơn về chỉ số cân nặng và cân nặng khi sinh so với chỉ số BMI của người cha.
 
Do đó, mặc dù rõ ràng là chỉ số BMI trước khi thụ thai của người mẹ ảnh hưởng đến cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh, nhưng ảnh hưởng của chỉ số BMI trước khi mang thai của người cha vẫn chưa rõ ràng. Hơn nữa, vẫn chưa biết liệu có ảnh hưởng bổ sung nào đối với cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh nếu cả cha và mẹ đều thừa cân hoặc béo phì hay không.
 
Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá các tác động độc lập và kết hợp của tình trạng thừa cân và béo phì của cả bố và mẹ đối với cân nặng khi sinh trung bình của trẻ sơ sinh bằng cách sử dụng một đoàn hệ ART trong đó BMI của cha mẹ trước khi thụ thai được thu thập thường xuyên.
 
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu về các chu kỳ thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm bằng kỹ thuật IVF hoặc ICSI tại miền nam nước Úc (2009–2017), sử dụng noãn và tinh trùng tự thân. Thực hiện chuyển đơn phôi nang. Chỉ số khối cơ thể của cha mẹ (BMI) đã được ghi lại trước khi bắt đầu chu kỳ điều trị. Cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh được ghi lại khi sinh. Tác động của tình trạng béo phì ở cha mẹ và sự tương tác của chúng đối với cân nặng khi sinh ở lứa tuổi đầu tiên (tuần thứ 37 của thai kỳ) được đánh giá bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính đánh giá tính phi tuyến tính và tương tác tuyến tính theo cặp.

Kết quả
Trong mô hình cơ sở nơi chỉ số BMI của cha mẹ được giả định tuyến tính, có bằng chứng rõ ràng về cân nặng khi sinh cao hơn khi chỉ số BMI của mẹ tăng (11,2 g trên mỗi kg/m2 của mẹ; khoảng tin cậy 95%, 7,2, 15,1) nhưng không phải chỉ số BMI của cha. Việc đưa vào tương tác tuyến tính theo cặp cho thấy chỉ số BMI của người cha làm giảm mối liên hệ tích cực giữa chỉ số BMI của người mẹ và cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh (tương tác 0,88; khoảng tin cậy 95%, 1,49, 0,27). Việc đưa vào các thuật ngữ BMI của mẹ phi tuyến tính không làm thay đổi kết luận.
 
Đây là nghiên cứu hồi cứu về 1.778 ca sinh đủ tháng sau điều trị ART, không thể phát hiện ra tình trạng tăng cân nặng khi cả cha và mẹ đều béo phì, so với trường hợp chỉ có một mình cha hoặc mẹ béo phì. Đó là, trong khi trẻ sơ sinh nặng cân hơn khi được sinh ra từ những bà mẹ thừa cân hoặc béo phì, thì mối liên hệ này dường như bị suy giảm đáng kể khi có sự béo phì của người cha. Điều quan trọng là, mức tăng ước tính về cân nặng khi sinh với bệnh béo phì của mẹ (với chỉ số BMI bình thường của người cha) cao gấp đôi so với mức tăng ở người béo phì ở người cha (và chỉ số BMI bình thường của người mẹ), cho thấy sự đóng góp của chỉ số BMI của người mẹ lớn hơn nhiều so với chỉ số BMI của người cha đối với cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh.
 
Bàn luận
Cơ chế về việc cha mẹ béo phì làm thay đổi cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh như thế nào có thể là do sự kết hợp của các yếu tố di truyền và biểu sinh (axit ribonucleic không mã hóa (RNA) và axit deoxyribonucleic (DNA) và quá trình methyl hóa histone) được cung cấp bởi tinh trùng và trứng khi thụ tinh và chế độ dinh dưỡng của người mẹ trong thai kỳ. Một số gen được biết là có vai trò trong khả năng di truyền của cân nặng. Béo phì của người mẹ trong thời kỳ mang thai có liên quan đến sự thay đổi biểu hiện của một số microRNA lưu hành với mức độ tương quan trực tiếp với sự thay đổi về trọng lượng nhau thai và cân nặng khi sinh của trẻ, trong khi một số nghiên cứu trên mô hình động vật và con người đã trực tiếp chỉ ra mối liên hệ giữa tình trạng béo phì của người mẹ khi thụ thai, những thay đổi biểu sinh của tinh trùng và thay đổi kiểu hình của thai nhi.
 
Kết luận
Với 1.778 trẻ sinh đủ tháng từ các cặp vợ chồng thực hiện ART tại Úc, kết quả của nhóm nghiên cứu chứng minh rằng sự gia tăng cân nặng khi sinh trung bình của trẻ sơ sinh liên quan đến tình trạng béo phì của mẹ và mối tương quan bị suy giảm khi người cha bị béo phì.
 
Mặc dù chỉ số BMI của người mẹ đóng góp nhiều hơn vào cân nặng trung bình của trẻ sơ sinh so với chỉ số BMI của người cha, nhưng cách tiếp cận tập trung vào cặp vợ chồng đối với lời khuyên về sức khỏe trước khi thụ thai có thể có giá trị, dựa trên mối quan hệ được ghi nhận giữa tình trạng béo phì của cha mẹ và cân nặng của trẻ em sau giai đoạn sơ sinh.
 
Nguồn: McPherson, N. O., Vincent, A. D., Zander-Fox, D., & Grieger, J. A. (2021). Birthweight associations with parental obesity: retrospective analysis of 1,778 singleton term births following assisted reproductive treatment. F&S Reports, 2(4), 405-412.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK