Tin tức
on Friday 07-07-2023 9:11am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Thời điểm đánh giá thụ tinh trong in-vitro là 16-18h sau ICSI. Về cơ bản, những noãn thụ tinh có 2 tiền nhân (pronuclei – PN) được quan sát thấy sẽ tiếp tục nuôi cấy và được lựa chọn chuyển phôi. Những noãn trưởng thành không có tiền nhân (0PN) hoặc chỉ có 1 tiền nhân (1PN) sẽ được xem là thụ tinh bất thường. Tần suất xuất hiện hợp tử 0PN và 1PN lần lượt là 11,3-20% và 1,6-7,7% ở cả 2 chu kỳ IVF/ICSI. Mặc dù phôi từ hợp tử 0PN và 1PN có khả năng phát triển thành phôi nang và trẻ sinh ra khỏe mạnh nhưng chúng thường bị loại bỏ do tỉ lệ bất thường NST cao hơn. Vài nghiên cứu về di truyền của phôi 0PN và 1PN đã gợi ý rằng chúng có thể có NST bình thường và nên được cân nhắc chuyển nếu không có phôi từ hợp tử 2PN. Ngoài ra, nhiều báo cáo đã chứng minh rằng phôi 0PN và 1PN giai đoạn phân chia có tỉ lệ làm tổ (implantation rate – IR) và trẻ sinh sống (live birth rate – LBR) thấp hơn phôi 2PN cùng giai đoạn trong khi 2 tỉ lệ này không có sự khác biệt nếu là phôi nang. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho rằng phôi nang từ 0PN và 1PN cho tỉ lệ IR và LBR thấp hơn phôi nang từ 2PN đặc biệt là ở chu kỳ ICSI. Do đó, kết quả lâm sàng của phôi nang 0PN và 1PN từ các kỹ thuật thụ tinh khác nhau cần được nghiên cứu sâu hơn.Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá xem liệu phôi nang 0PN và 1PN từ chu kỳ ICSI có cho kết quả tương đương với chu kỳ IVF.
Đây là một nghiên cứu phân tích hồi cứu về sự hình thành phôi nang từ hợp tử 0PN và 1PN trong cả 2 chu kỳ IVF và ICSI nhằm so sánh kết quả lâm sàng của chuyển đơn phôi nang trữ có nguồn gốc từ hợp tử 0PN và 1PN cũng như kết quả di truyền sau phân tích PGT-A. Tỉ lệ phôi nang hữu dụng của 7084-0PN, 2238-1PN và 72266-2PN trong 19631 chu kỳ IVF và 12377 chu kỳ ICSI được phân tích trong khoảng thời gian từ T3/2018 – T12/2021. Các tỉ lệ lâm sàng được so sánh bao gồm tỉ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate – CPR), LBR và tỉ lệ sẩy thai (miscarriage rate – MR).
Kết quả cho thấy:
Từ hợp tử 2PN, tỉ lệ phôi nang N5 và phôi nang chất lượng tốt (N5+N6) lần lượt là 69,6% và 44,7% ở IVF tương đương với 61,6% và 42,9% ở ICSI (P<0,05). Tỉ lệ phôi nang hữu dụng ở cả 2 chu kỳ là 53,4% và 49,8% (P<0,05). Kết quả lâm sàng bao gồm CPR, LBR và MR ở IVF lần lượt là 50,7%; 42,3% và 16,2% trong khi 3 tỉ lệ này ở ICSI lần lượt là 49,2%; 43,9% và 10,2%.
-Tỉ lệ phôi nang N5 và chất lượng tốt (N5+N6) từ hợp tử:
Nhìn chung, 0PN và 1PN cho tỉ lệ phôi nang hữu dụng thấp hơn 2PN đặc biệt trong chu kỳ ICSI. Tuy nhiên, thông số lâm sàng như CPR, LBR và MR cũng như tỉ lệ nguyên bội ở cả 3 nhóm đều không có sự khác biệt.
Nguyên nhân hợp tử 0PN có thể là do 2PN biến mất, không thụ tinh hoặc PN chưa hình thành. Vì vậy, nuôi cấy phôi nang thường được chỉ định cho tiềm năng phát triển của phôi 0PN. Nghiên cứu của Chen và cộng sự đã chứng minh rằng tỉ lệ phôi nang hữu dụng từ hợp tử 0PN cao hơn ở phôi N3 có ≥6 phôi bào so với <6 phôi bào và 47,7% / 32,0% phôi 0PN ở chu kỳ IVF/ICSI phát triển được đến giai đoạn phôi nang. Tỉ lệ này thấp hơn so với phôi 2PN nhưng phôi 0PN lại có tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt cao hơn và thông số lâm sàng (CPR, LBR và MR) gần như tương đương với phôi nang 2PN. Dữ liệu về kết quả nguyên bội của 0PN ở chu kỳ IVF và ICSI cũng như không có bất thường bội thể trong phôi nguyên bội cho thấy chúng có thể được chuyển và có hiệu quả lâm sàng như phôi nang 2PN.
Mặt khác, nguyên nhân hợp tử 1PN tại thời điểm đánh giá thụ tinh có thể là do 1PN xuất hiện sớm hoặc biến mất, 2PN đang hòa màng hoặc trinh sản. Hầu hết các phân tích về hợp tử 1PN đều thể hiện sự giảm tiềm năng phát triển so với 2PN. Tỉ lệ hình thành phôi nang từ 1PN chỉ có 14,8% ở IVF và 6,6% ở ICSI trong khi từ 2PN là 36,4% và 34,0%. Số liệu được công bố trong bài này cũng cho kết quả tương đương. Nếu nuôi cấy N5 cho phôi từ hợp tử 1PN thì sẽ hiệu quả hơn trong lựa chọn phôi chuyển vì chúng được quan sát thấy có sự phát triển động học cũng như CPR và LBR giống với phôi 2PN. Tỉ lệ nguyên bội từ phôi 1PN cũng không có sự khác biệt đáng kể trong cả 2 chu kỳ và đặc biệt là tất cả phôi nang nguyên bội của chúng đều là lưỡng bội. Do đó, phôi nang 1PN có thể được chọn để chuyển như phôi nang 2PN.
Ngoài ra, nghiên cứu này có một số giới hạn vì đây là kết quả chỉ từ 1 trung tâm và việc chuyển phôi 0PN và 1PN không phổ biến vì tổng số bệnh nhân được chỉ định chuyển những loại phôi này còn rất hạn chế cũng như tính an toàn của việc chuyển phôi 0PN và 1PN cần được chứng minh thêm.
Nguồn: Tong X, Jin J, Xue Y, Fang L, Zhu H, Jiang L và Zhang S. Clinical outcomes of frozen-thawed blastocysts from zygotes with no or one pronucleus for in vitro fertilization and intracytoplasmic sperm injection cycles. Research Square. 2023 Jan 27.
Thời điểm đánh giá thụ tinh trong in-vitro là 16-18h sau ICSI. Về cơ bản, những noãn thụ tinh có 2 tiền nhân (pronuclei – PN) được quan sát thấy sẽ tiếp tục nuôi cấy và được lựa chọn chuyển phôi. Những noãn trưởng thành không có tiền nhân (0PN) hoặc chỉ có 1 tiền nhân (1PN) sẽ được xem là thụ tinh bất thường. Tần suất xuất hiện hợp tử 0PN và 1PN lần lượt là 11,3-20% và 1,6-7,7% ở cả 2 chu kỳ IVF/ICSI. Mặc dù phôi từ hợp tử 0PN và 1PN có khả năng phát triển thành phôi nang và trẻ sinh ra khỏe mạnh nhưng chúng thường bị loại bỏ do tỉ lệ bất thường NST cao hơn. Vài nghiên cứu về di truyền của phôi 0PN và 1PN đã gợi ý rằng chúng có thể có NST bình thường và nên được cân nhắc chuyển nếu không có phôi từ hợp tử 2PN. Ngoài ra, nhiều báo cáo đã chứng minh rằng phôi 0PN và 1PN giai đoạn phân chia có tỉ lệ làm tổ (implantation rate – IR) và trẻ sinh sống (live birth rate – LBR) thấp hơn phôi 2PN cùng giai đoạn trong khi 2 tỉ lệ này không có sự khác biệt nếu là phôi nang. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho rằng phôi nang từ 0PN và 1PN cho tỉ lệ IR và LBR thấp hơn phôi nang từ 2PN đặc biệt là ở chu kỳ ICSI. Do đó, kết quả lâm sàng của phôi nang 0PN và 1PN từ các kỹ thuật thụ tinh khác nhau cần được nghiên cứu sâu hơn.Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá xem liệu phôi nang 0PN và 1PN từ chu kỳ ICSI có cho kết quả tương đương với chu kỳ IVF.
Đây là một nghiên cứu phân tích hồi cứu về sự hình thành phôi nang từ hợp tử 0PN và 1PN trong cả 2 chu kỳ IVF và ICSI nhằm so sánh kết quả lâm sàng của chuyển đơn phôi nang trữ có nguồn gốc từ hợp tử 0PN và 1PN cũng như kết quả di truyền sau phân tích PGT-A. Tỉ lệ phôi nang hữu dụng của 7084-0PN, 2238-1PN và 72266-2PN trong 19631 chu kỳ IVF và 12377 chu kỳ ICSI được phân tích trong khoảng thời gian từ T3/2018 – T12/2021. Các tỉ lệ lâm sàng được so sánh bao gồm tỉ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate – CPR), LBR và tỉ lệ sẩy thai (miscarriage rate – MR).
Kết quả cho thấy:
Từ hợp tử 2PN, tỉ lệ phôi nang N5 và phôi nang chất lượng tốt (N5+N6) lần lượt là 69,6% và 44,7% ở IVF tương đương với 61,6% và 42,9% ở ICSI (P<0,05). Tỉ lệ phôi nang hữu dụng ở cả 2 chu kỳ là 53,4% và 49,8% (P<0,05). Kết quả lâm sàng bao gồm CPR, LBR và MR ở IVF lần lượt là 50,7%; 42,3% và 16,2% trong khi 3 tỉ lệ này ở ICSI lần lượt là 49,2%; 43,9% và 10,2%.
-Tỉ lệ phôi nang N5 và chất lượng tốt (N5+N6) từ hợp tử:
- 0PN: 85,5% và 56,1% (IVF); 75,5% và 57,1% (ICSI).
- 1PN: 70,4% và 49,8% (IVF); 47,4% và 38,2% (ICSI).
- 0PN: 47,7% (IVF); 32,0% (ICSI)
- 1PN: 28,9% (IVF); 16,1% (ICSI)
- 0PN: 46,2%; 36,1%; 20,0% (IVF) và 46,3%; 39%; 15,8% (ICSI)
- 1PN: 52,6%; 37,2%; 26,8% (IVF) và 42,9%; 42,9%; 0% (ICSI)
Nhìn chung, 0PN và 1PN cho tỉ lệ phôi nang hữu dụng thấp hơn 2PN đặc biệt trong chu kỳ ICSI. Tuy nhiên, thông số lâm sàng như CPR, LBR và MR cũng như tỉ lệ nguyên bội ở cả 3 nhóm đều không có sự khác biệt.
Nguyên nhân hợp tử 0PN có thể là do 2PN biến mất, không thụ tinh hoặc PN chưa hình thành. Vì vậy, nuôi cấy phôi nang thường được chỉ định cho tiềm năng phát triển của phôi 0PN. Nghiên cứu của Chen và cộng sự đã chứng minh rằng tỉ lệ phôi nang hữu dụng từ hợp tử 0PN cao hơn ở phôi N3 có ≥6 phôi bào so với <6 phôi bào và 47,7% / 32,0% phôi 0PN ở chu kỳ IVF/ICSI phát triển được đến giai đoạn phôi nang. Tỉ lệ này thấp hơn so với phôi 2PN nhưng phôi 0PN lại có tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt cao hơn và thông số lâm sàng (CPR, LBR và MR) gần như tương đương với phôi nang 2PN. Dữ liệu về kết quả nguyên bội của 0PN ở chu kỳ IVF và ICSI cũng như không có bất thường bội thể trong phôi nguyên bội cho thấy chúng có thể được chuyển và có hiệu quả lâm sàng như phôi nang 2PN.
Mặt khác, nguyên nhân hợp tử 1PN tại thời điểm đánh giá thụ tinh có thể là do 1PN xuất hiện sớm hoặc biến mất, 2PN đang hòa màng hoặc trinh sản. Hầu hết các phân tích về hợp tử 1PN đều thể hiện sự giảm tiềm năng phát triển so với 2PN. Tỉ lệ hình thành phôi nang từ 1PN chỉ có 14,8% ở IVF và 6,6% ở ICSI trong khi từ 2PN là 36,4% và 34,0%. Số liệu được công bố trong bài này cũng cho kết quả tương đương. Nếu nuôi cấy N5 cho phôi từ hợp tử 1PN thì sẽ hiệu quả hơn trong lựa chọn phôi chuyển vì chúng được quan sát thấy có sự phát triển động học cũng như CPR và LBR giống với phôi 2PN. Tỉ lệ nguyên bội từ phôi 1PN cũng không có sự khác biệt đáng kể trong cả 2 chu kỳ và đặc biệt là tất cả phôi nang nguyên bội của chúng đều là lưỡng bội. Do đó, phôi nang 1PN có thể được chọn để chuyển như phôi nang 2PN.
Ngoài ra, nghiên cứu này có một số giới hạn vì đây là kết quả chỉ từ 1 trung tâm và việc chuyển phôi 0PN và 1PN không phổ biến vì tổng số bệnh nhân được chỉ định chuyển những loại phôi này còn rất hạn chế cũng như tính an toàn của việc chuyển phôi 0PN và 1PN cần được chứng minh thêm.
Nguồn: Tong X, Jin J, Xue Y, Fang L, Zhu H, Jiang L và Zhang S. Clinical outcomes of frozen-thawed blastocysts from zygotes with no or one pronucleus for in vitro fertilization and intracytoplasmic sperm injection cycles. Research Square. 2023 Jan 27.
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh các kết quả lâm sàng giữa hai thời điểm sinh thiết phôi nang (trước hay sau đông lạnh) của các chu kỳ chuyển phôi trữ kết hợp PGT-A. - Ngày đăng: 07-07-2023
Ảnh hưởng của tăng bạch cầu bất thường trong tinh dịch lên kết quả hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 07-07-2023
Ảnh hưởng của sự phát triển và rụng trứng ngoài dự kiến trong các chu kỳ nhân tạo: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu về chuyển đơn phôi nang đông lạnh - Ngày đăng: 07-07-2023
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) so với thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (cIVF) ở những bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam - Ngày đăng: 26-06-2023
Lạc nội mạc tử cung và Adenomyosis có cùng sinh lý bệnh - Ngày đăng: 26-06-2023
Có nên trì hoãn chuyển phôi trữ lạnh ở chu kỳ ngay sau khi chọc hút trứng hay không? - Ngày đăng: 22-06-2023
Xác suất tìm thấy tinh tử tròn ở nam giới vô tinh không do tắc nghẽn - Ngày đăng: 21-06-2023
Cách cải thiện kết cục lâm sàng của kỹ thuật tiêm tinh tử tròn vào bào tương noãn (ROSI): hiệu chỉnh các bất thường thượng di truyền - Ngày đăng: 21-06-2023
Chuyển phôi nang ngày 6 chất lượng tốt không ưu thế hơn so với chuyển phôi nang ngày 5 chất lượng kém trong các chu kì đông lạnh – rã đông được phân tầng theo độ tuổi: một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 06-06-2023
Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp về lý do chuyển phôi nang nguyên bội vẫn thất bại làm tổ. - Ngày đăng: 06-06-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK