Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 10-12-2022 2:27pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
NHS Phan Thị Tùng Phương - Đơn Vị IVFMD Buôn Ma Thuột
 
Sức khỏe trẻ em sinh ra đời sau khi thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là mối quan tâm chính vì đã có tới 6% trẻ sinh ra đời ở các nước Châu Âu là kết quả của hỗ trợ sinh sản. Chuyển phôi đông lạnh (FET) đang tăng mạnh và chiếm 32.6% tổng số chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản ở Châu Âu, tỷ lệ phân bổ đối với chu kỳ chuyển phôi trữ (FET) trên mỗi lần rã đông cao hơn so với chu kỳ chuyển phôi tươi (ET) trên mỗi lần hút noãn. Ở Phần Lan, khoảng 50% trẻ sinh ra sau chuyển phôi trữ (2019).
 
Dữ liệu sức khỏe dài hạn về trẻ sinh ra sau FET rất khan hiếm. hầu hết các nghiên cứu đã trình bày kết quả về ART và phương pháp điều trị sinh sản IVF so với thai tự nhiên và các tác động có thể của chuyển phôi trữ chưa rõ ràng. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây đã tập trung vào kết quả của các chẩn đoán riêng biệt được lựa chọn như ung thư: đã mô tả sức khỏe trẻ cho đến khi trẻ 3 tuổi, và nhận thấy sức khỏe trẻ đơn thai tương tự nhau giữa nhóm chuyển phôi trữ và phôi tươi, và có nguy cơ nhập viện tăng nhẹ so với trẻ sinh từ thai tự nhiên. Mục đích nghiên cứu này là cung cấp một quá trình theo dõi lâu dài cho đến khi trẻ 18 tuổi với những đứa trẻ sinh ra sau FET, dựa trên dữ liệu đăng ký dân số ở Phần Lan.
 
Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu
Dân số nghiên cứu
Dân số được nghiên cứu hiện tại bao gồm trẻ sinh non tháng và trẻ sinh đủ tháng sau FET (n=1.825) và ET (n=2.923) trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến 2006 tại Oulu và Helsinki ở Phần Lan. Có 10% mẫu đối chứng nghiên cứu (n= 31.136) từ cùng năm sinh khớp với khu vực sinh sống được lấy từ sổ đăng ký sinh tại Phần Lan (FMBR). Nghiên cứu này là sự tiếp nối của các nghiên cứu trước bao gồm sức khỏe chu sinh, dị tật bẩm sinh lớn và sức khỏe của trẻ sinh ra sau FET và ET cho đến khi trẻ 3 tuổi. Nghiên cứu dựa trên sổ đăng ký kết hợp với dữ liệu FMBR, cũng như sổ đăng ký sức khỏe Phần Lan (CRHC), sổ đăng ký nguyên nhân tử vong tại Cơ quan thống kê Phần Lan.
 
Viện Y Tế và phúc lợi Phần Lan (THL) chịu trách nhiệm về FMBR và đăng ký CRHC. FMBR bao gồm các dữ liệu về các ca sống và thai chết lưu có trọng lượng sơ sinh ít nhất 500g hoặc tuổi thai ít nhất 22 tuần cũng như dữ liệu của các bà mẹ. Các nguồn dữ liệu FMBR bao gồm các bệnh viện phụ sản và các đơn vị sơ sinh, sổ đăng ký dân số trung ương Phần Lan do cơ quan dữ liệu dịch vụ dân số kỹ thuật số và thống kê Phần Lan lưu giữ. CRHC trả chi phí bệnh viện và các dịch vụ chăm sóc nội trú khác, và các chuyến thăm khám ngoại trú tại các bệnh viện công nhằm mục đích thống kê, nghiên cứu và lập kế hoạch. Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc gửi các thông báo chăm sóc bắt buộc hàng năm. Các thông báo chăm sóc bao gồm dữ liệu về số nhận dạng cá nhân của bệnh nhân, lý do tìm kiếm dịch vụ chăm sóc, nhập viện và xuất viện, chẩn đoán, thủ tục và can thiệp.
 
Kết luận
Nghiên cứu dựa trên sổ đăng ký của Phần Lan này cho thấy sức khỏe chung của những đứa trẻ sinh ra sau FET và ET có thể so sánh được với tuổi trưởng thành sớm. Tuy nhiên, so với những trẻ sinh ra sau nghiên cứu (trẻ sinh ra từ thai tự nhiên), những trẻ sinh ra sau cả FET và ET có nguy cơ đến bệnh viện và nhập viện tăng nhẹ.
 
Có một số nghiên cứu mô tả nguy cơ ung thư và ung thư của trẻ em sinh ra sau FET. Không tìm thấy nguy cơ ung thư tăng đối với FET (n = 33.899) so với ET trong một nhóm ở Hoa Kỳ với thời gian theo dõi trung bình từ 4–6 năm. Phù hợp với điều này, một phân tích tổng hợp không tìm thấy sự khác biệt về nguy cơ ung thư giữa FET và ET. Tuy nhiên, họ mô tả nguy cơ ung thư tăng lên đối với FET so với NC (KTC 95%, 1,04–1,81). Trong nghiên cứu này, sự khác biệt có ý nghĩa được tìm thấy trong tỷ lệ chẩn đoán ung thư giữa FET, ET và nghiên cứu. Khi giới hạn phân tích đối với khối u ác tính, không có sự khác biệt đáng kể nào được nhận thấy. Vì tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở trẻ em là rất thấp. Điều này, cũng như các điều chỉnh khác, có thể giải thích các kết quả mâu thuẫn về nguy cơ ung thư giữa các nghiên cứu khác nhau.
 
Một nghiên cứu gần đây của Thụy Điển cho thấy nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường týp 1 tăng lên đối với FET (n=11.211) so với ET và nghiên cứu  (KTC 95% 1,08- 2,14 và KTC 95%, 1,05- 1,89 tương ứng). Các điều chỉnh đã được thực hiện đối với tuổi mẹ, hút thuốc, quốc gia sinh của cha mẹ, trình độ học vấn, đái tháo đường týp I, IVF / ICSI và năm sinh. Ngược lại, một nghiên cứu của Đan Mạch không tìm thấy mối liên quan giữa ART (n = 8.490) và đái tháo đường týp 1, cũng như giữa FET (n = 715) và đái tháo đường týp 1. Trong nghiên cứu, không có sự khác biệt đáng kể nào về các bệnh nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa giữa các nhóm.
 
 
Nguồn: A.M. Terho, A. Tiitinen, H. Martikainen1, M. Gissler, and S. Pelkone. Health of singletons born after frozen embryo transfer until early adulthood: a Finnish register study. Human Reproduction pp1-9, 2022. https://doi.org/10.1093/humrep/deac211.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK