Tin tức
on Thursday 01-12-2022 2:55pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFMD An Sinh, Bệnh viện An Sinh
Thăm khám và điều trị y tế bao gồm nhiều quy trình dài và mức độ phức tạp tuỳ thuộc vào loại điều trị. Tuy nhiên, thông thường lượng thông tin bệnh nhân cần ghi nhận khá nhiều và phải tiếp thu trong một thời gian ngắn. Trong quy trình thường quy, sau khi được bác sĩ lâm sàng thăm khám, tư vấn các vấn đề liên quan cũng như phương pháp điều trị, bệnh nhân sẽ ký một đơn đồng ý điều trị. Đây là một thủ tục cần thiết trước khi điều trị nhằm đảm bảo bệnh nhân đã được tư vấn và có hiểu biết đầy đủ về thủ tục, rủi ro, lợi ích và các phương án thay thế nếu cần thiết.
Tuy nhiên, nhiều tài liệu y khoa báo cáo rằng việc bệnh nhân nhớ lại sau khi có sự đồng ý này thường hạn chế, vì trí nhớ dễ thay đổi và việc nhớ sai dễ khiến bệnh nhân cảm thấy không hài lòng với lượng thông tin nhận được. Điều này đặc biệt rõ ràng ở những bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản (ART). Các thủ tục liên quan đến điều trị hiếm muộn không chỉ liên quan đến các khái niệm khoa học xa lạ với nhiều người mà còn mang tính cảm xúc vì bệnh nhân thường trải qua căng thẳng đáng kể khi cố gắng có con. Hơn nữa, có những cân nhắc bổ sung về đạo đức và pháp lý phải được xem xét, chẳng hạn như việc xử lý phôi không sử dụng. Không giống như các thủ tục phẫu thuật khẩn cấp như cắt ruột thừa, điều trị vô sinh thường không phải là trường hợp khẩn cấp; do đó, thời gian để xử lý và hiểu rõ các thủ tục và hậu quả tiềm ẩn của chúng cần nhiều thời gian. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các trung tâm y tế không ngừng tìm kiếm những phương pháp nâng cao trải nghiệm và cách thức tiếp cận thông tin cho bệnh nhân.
Các nhà nghiên cứu trong các ngành khác đã nghiên cứu xem liệu việc bổ sung các biện pháp can thiệp đa phương tiện có thể cải thiện sự hiểu biết và giảm thiểu sự lo lắng của bệnh nhân. Hai tổng quan hệ thống gần đây và một phân tích tổng hợp Cochrane đã báo cáo rằng hầu hết các công cụ nghe nhìn và tương tác đã nghiên cứu cải thiện khả năng hiểu của bệnh nhân. Ngoài ra, phân tích tổng hợp gần đây đã kết luận rằng sự lo lắng của bệnh nhân, cả việc tổng quan và việc liên quan đến sự đồng thuận, không khác biệt gì ở những người nhận được so với những người không nhận được hỗ trợ thông tin đa phương tiện. Theo hiểu biết của nhóm nghiên cứu, hiện nay chỉ có một can thiệp đa phương tiện như vậy, Engagedmd (EMD) – là một nền tảng này bao gồm các mô-đun thông tin ngắn gọn, sau đó là đánh giá mức độ hiểu (và giải thích cho các câu trả lời sai). Bệnh nhân có thể điền các thông tin điều trị cơ bản, như xét nghiệm, thông tin cá nhân đồng thời có thể cập nhật ký giấy tờ quan trọng mà không cần phải đến bệnh viện nếu ở xa. Đồng thời hệ thống nhắc nhở ngày quan trọng qua email tự động. Đây là một nền tảng được cho là có tính bảo mật cao, chỉ bệnh viện và bệnh nhân được vào. Trong một nghiên cứu tiến cứu, Madeira và các cộng sự (2018) cho thấy các phản hồi được báo cáo gần đây từ hơn 3.000 bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ tại 13 trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Hoa Kỳ. Cuộc khảo sát kết luận rằng nền tảng đa phương tiện đã chuẩn bị kiến thức và tâm lý tốt hơn cho hầu hết bệnh nhân và việc ký vào các văn bản chấp thuận một cách tiện lợi dễ dàng, là một công cụ bổ sung hữu ích.
Mục đích nghiên cứu
Để đánh giá ảnh hưởng của giáo dục tương tác đa phương tiện và quá trình chấp thuận đối với sự hiểu biết và mức độ lo lắng của bệnh nhân so với tư vấn truyền thống từ bác sĩ, nữ hộ sinh và hình thức giấy ký đồng thuận truyền thống ở bệnh nhân xuyên suốt chu trình điều trị vô sinh đầu tiên của họ. Nhóm nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng EMD sẽ vượt trội hơn so với tư vấn truyền thống và sẽ cải thiện khả năng hiểu của bệnh nhân.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát (RCT) thực hiện tại các phòng khám nội tiết sinh sản và hiếm muộn trực thuộc trường đại học. Bệnh nhân từ 18–45 tuổi trải qua chu kỳ thực hiện IVF hoặc IUI đầu tiên của họ. Nhóm bệnh nhân sẽ được tiếp cận nền tảng cung cấp thông tin đa phương tiện (EMD) trước và trong quá trình điều trị, bên cạnh các tư vấn đúng yêu cầu của bác sĩ và nữ hộ sinh.
Các đo lường kết quả chính bao gồm ba thời điểm khảo sát: trước khi bắt đầu điều trị (t1), khi bắt đầu điều trị (t2) và khi hoàn thành chu kỳ điều trị (IUI hoặc IVF) (t3). Thước đo kết quả chính là điểm đọc hiểu trong bài đánh giá gồm 15 câu hỏi được thực hiện ở 2 thời điểm (t2 và t3). Trạng thái lo lắng ở cả 3 thời điểm được đánh giá bằng cách sử dụng điểm số “Bảng Kiểm Trạng Thái Lo Âu” của Spielberger.
Kết quả
Tám mươi sáu (86) bệnh nhân bao gồm: 43 bệnh nhân được tư vấn truyền thống như trước giờ (21 bệnh nhân thực hiện IUI và 22 bệnh nhân điều trị IVF). Có 43 bệnh nhân được tiếp cận nền tảng đa phương tiện (EMD) (21 bệnh nhân thực hiện IUI và 22 bệnh nhân thực hiện IVF). Nhìn chung, số câu trung bình đúng dựa trên 15 câu hỏi đánh giá mức độ đọc hiểu ở các nhóm EMD cao hơn đáng kể so với các nhóm truyền thống ở t2 (nhóm EMD=13,2 ±1,8 so với nhóm truyền thống 11,7 ± 1,8). không có sực khác biệt giữa hai nhóm khi bệnh nhân hoàn thành quá trình điều trị (t3). Đối với những bệnh nhân điều trị IVF, số câu trung bình đúng cao hơn đáng kể ở cả t2 và t3 trong EMD so với nhóm truyền thống (t2: 14,1 ± 1,3 so với 12,4 ± 1,8; t3: 14,1 ± 1,7 so với 12,5 ± 1,5). Điểm số bảng kiểm trạng thái lo âu trung bình tại mỗi thời điểm là tương tự nhau giữa EMD và các nhóm truyền thống cho cả nhóm hai nhóm IUI và IVF. Độ tuổi trẻ ≤35 tuổi và điều trị IVF là những dự đoán quan trọng của việc gia tăng điểm số bảng kiểm trạng thái lo âu.
Kết luận
Như vậy, việc bổ sung một nền tảng thông tin đa phương tiện đã cải thiện đáng kể sự hiểu biết giúp tăng sự tự tin của những bệnh nhân khi lần đầu tiên điều trị. Khi những bệnh nhân đã trải qua 1 lần điều trị có quyền truy cập vào EMD trong lần điều trị mới, điều này sẽ giúp cung cấp thêm thông tin giúp hiểu rõ và giải toả áp lực tâm lý. Trong tương lai, cần thêm nghiên cứu đánh giá về hiệu quả chi phí khi áp dụng nền tảng này.
Nguồn: Bernard, A. L., Barbour, A. K., Meernik, C., Madeira, J. L., Lindheim, S. R., & Goodman, L. R. (2022). The impact of an interactive multimedia educational platform on patient comprehension and anxiety during fertility treatment: a randomized controlled trial. F&S Reports
Thăm khám và điều trị y tế bao gồm nhiều quy trình dài và mức độ phức tạp tuỳ thuộc vào loại điều trị. Tuy nhiên, thông thường lượng thông tin bệnh nhân cần ghi nhận khá nhiều và phải tiếp thu trong một thời gian ngắn. Trong quy trình thường quy, sau khi được bác sĩ lâm sàng thăm khám, tư vấn các vấn đề liên quan cũng như phương pháp điều trị, bệnh nhân sẽ ký một đơn đồng ý điều trị. Đây là một thủ tục cần thiết trước khi điều trị nhằm đảm bảo bệnh nhân đã được tư vấn và có hiểu biết đầy đủ về thủ tục, rủi ro, lợi ích và các phương án thay thế nếu cần thiết.
Tuy nhiên, nhiều tài liệu y khoa báo cáo rằng việc bệnh nhân nhớ lại sau khi có sự đồng ý này thường hạn chế, vì trí nhớ dễ thay đổi và việc nhớ sai dễ khiến bệnh nhân cảm thấy không hài lòng với lượng thông tin nhận được. Điều này đặc biệt rõ ràng ở những bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản (ART). Các thủ tục liên quan đến điều trị hiếm muộn không chỉ liên quan đến các khái niệm khoa học xa lạ với nhiều người mà còn mang tính cảm xúc vì bệnh nhân thường trải qua căng thẳng đáng kể khi cố gắng có con. Hơn nữa, có những cân nhắc bổ sung về đạo đức và pháp lý phải được xem xét, chẳng hạn như việc xử lý phôi không sử dụng. Không giống như các thủ tục phẫu thuật khẩn cấp như cắt ruột thừa, điều trị vô sinh thường không phải là trường hợp khẩn cấp; do đó, thời gian để xử lý và hiểu rõ các thủ tục và hậu quả tiềm ẩn của chúng cần nhiều thời gian. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các trung tâm y tế không ngừng tìm kiếm những phương pháp nâng cao trải nghiệm và cách thức tiếp cận thông tin cho bệnh nhân.
Các nhà nghiên cứu trong các ngành khác đã nghiên cứu xem liệu việc bổ sung các biện pháp can thiệp đa phương tiện có thể cải thiện sự hiểu biết và giảm thiểu sự lo lắng của bệnh nhân. Hai tổng quan hệ thống gần đây và một phân tích tổng hợp Cochrane đã báo cáo rằng hầu hết các công cụ nghe nhìn và tương tác đã nghiên cứu cải thiện khả năng hiểu của bệnh nhân. Ngoài ra, phân tích tổng hợp gần đây đã kết luận rằng sự lo lắng của bệnh nhân, cả việc tổng quan và việc liên quan đến sự đồng thuận, không khác biệt gì ở những người nhận được so với những người không nhận được hỗ trợ thông tin đa phương tiện. Theo hiểu biết của nhóm nghiên cứu, hiện nay chỉ có một can thiệp đa phương tiện như vậy, Engagedmd (EMD) – là một nền tảng này bao gồm các mô-đun thông tin ngắn gọn, sau đó là đánh giá mức độ hiểu (và giải thích cho các câu trả lời sai). Bệnh nhân có thể điền các thông tin điều trị cơ bản, như xét nghiệm, thông tin cá nhân đồng thời có thể cập nhật ký giấy tờ quan trọng mà không cần phải đến bệnh viện nếu ở xa. Đồng thời hệ thống nhắc nhở ngày quan trọng qua email tự động. Đây là một nền tảng được cho là có tính bảo mật cao, chỉ bệnh viện và bệnh nhân được vào. Trong một nghiên cứu tiến cứu, Madeira và các cộng sự (2018) cho thấy các phản hồi được báo cáo gần đây từ hơn 3.000 bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ tại 13 trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Hoa Kỳ. Cuộc khảo sát kết luận rằng nền tảng đa phương tiện đã chuẩn bị kiến thức và tâm lý tốt hơn cho hầu hết bệnh nhân và việc ký vào các văn bản chấp thuận một cách tiện lợi dễ dàng, là một công cụ bổ sung hữu ích.
Mục đích nghiên cứu
Để đánh giá ảnh hưởng của giáo dục tương tác đa phương tiện và quá trình chấp thuận đối với sự hiểu biết và mức độ lo lắng của bệnh nhân so với tư vấn truyền thống từ bác sĩ, nữ hộ sinh và hình thức giấy ký đồng thuận truyền thống ở bệnh nhân xuyên suốt chu trình điều trị vô sinh đầu tiên của họ. Nhóm nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng EMD sẽ vượt trội hơn so với tư vấn truyền thống và sẽ cải thiện khả năng hiểu của bệnh nhân.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát (RCT) thực hiện tại các phòng khám nội tiết sinh sản và hiếm muộn trực thuộc trường đại học. Bệnh nhân từ 18–45 tuổi trải qua chu kỳ thực hiện IVF hoặc IUI đầu tiên của họ. Nhóm bệnh nhân sẽ được tiếp cận nền tảng cung cấp thông tin đa phương tiện (EMD) trước và trong quá trình điều trị, bên cạnh các tư vấn đúng yêu cầu của bác sĩ và nữ hộ sinh.
Các đo lường kết quả chính bao gồm ba thời điểm khảo sát: trước khi bắt đầu điều trị (t1), khi bắt đầu điều trị (t2) và khi hoàn thành chu kỳ điều trị (IUI hoặc IVF) (t3). Thước đo kết quả chính là điểm đọc hiểu trong bài đánh giá gồm 15 câu hỏi được thực hiện ở 2 thời điểm (t2 và t3). Trạng thái lo lắng ở cả 3 thời điểm được đánh giá bằng cách sử dụng điểm số “Bảng Kiểm Trạng Thái Lo Âu” của Spielberger.
Kết quả
Tám mươi sáu (86) bệnh nhân bao gồm: 43 bệnh nhân được tư vấn truyền thống như trước giờ (21 bệnh nhân thực hiện IUI và 22 bệnh nhân điều trị IVF). Có 43 bệnh nhân được tiếp cận nền tảng đa phương tiện (EMD) (21 bệnh nhân thực hiện IUI và 22 bệnh nhân thực hiện IVF). Nhìn chung, số câu trung bình đúng dựa trên 15 câu hỏi đánh giá mức độ đọc hiểu ở các nhóm EMD cao hơn đáng kể so với các nhóm truyền thống ở t2 (nhóm EMD=13,2 ±1,8 so với nhóm truyền thống 11,7 ± 1,8). không có sực khác biệt giữa hai nhóm khi bệnh nhân hoàn thành quá trình điều trị (t3). Đối với những bệnh nhân điều trị IVF, số câu trung bình đúng cao hơn đáng kể ở cả t2 và t3 trong EMD so với nhóm truyền thống (t2: 14,1 ± 1,3 so với 12,4 ± 1,8; t3: 14,1 ± 1,7 so với 12,5 ± 1,5). Điểm số bảng kiểm trạng thái lo âu trung bình tại mỗi thời điểm là tương tự nhau giữa EMD và các nhóm truyền thống cho cả nhóm hai nhóm IUI và IVF. Độ tuổi trẻ ≤35 tuổi và điều trị IVF là những dự đoán quan trọng của việc gia tăng điểm số bảng kiểm trạng thái lo âu.
Kết luận
Như vậy, việc bổ sung một nền tảng thông tin đa phương tiện đã cải thiện đáng kể sự hiểu biết giúp tăng sự tự tin của những bệnh nhân khi lần đầu tiên điều trị. Khi những bệnh nhân đã trải qua 1 lần điều trị có quyền truy cập vào EMD trong lần điều trị mới, điều này sẽ giúp cung cấp thêm thông tin giúp hiểu rõ và giải toả áp lực tâm lý. Trong tương lai, cần thêm nghiên cứu đánh giá về hiệu quả chi phí khi áp dụng nền tảng này.
Nguồn: Bernard, A. L., Barbour, A. K., Meernik, C., Madeira, J. L., Lindheim, S. R., & Goodman, L. R. (2022). The impact of an interactive multimedia educational platform on patient comprehension and anxiety during fertility treatment: a randomized controlled trial. F&S Reports
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các yếu tố nguy cơ liên quan đến sinh non khi thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 26-11-2022
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sống sau trữ - rã của 6167 phôi nang nguyên bội - Ngày đăng: 26-11-2022
Ảnh hưởng của nhiễm khuẩn đến chất lượng tinh trùng và phân mảnh DNA ở nam giới vô sinh có xuất hiện bạch cầu trong tinh dịch - Ngày đăng: 22-11-2022
Tác dụng của Vitamin E dạng uống lên các thông số tinh dịch và kết quả IVF: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm soát giả dược mù đôi - Ngày đăng: 21-11-2022
Vai trò của chuyên viên phôi học trong quy trình chuyển phôi - Ngày đăng: 21-11-2022
Lợi ích lâm sàng đối với việc đông lạnh tinh trùng đơn lẻ trong ICSI: Tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 21-11-2022
Đánh giá hình thái có dự đoán tiềm năng phát triển của noãn không? Tổng quan hệ thống và đề xuất thang điểm đánh giá - Ngày đăng: 21-11-2022
Kéo dài thời gian điều trị letrozole có hiệu quả trong việc gây rụng trứng ở phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang và kháng letrozole - Ngày đăng: 14-11-2022
Sự giao tiếp giữa mẹ và phôi - Ngày đăng: 14-11-2022
Chúng ta đang bước sang kỷ nguyên của tự động hóa trong hỗ trợ sinh sản: Những ứng dụng trong nuôi cấy phôi, đánh giá phôi và đông lạnh phôi (Phần 2) - Ngày đăng: 14-11-2022
Chúng ta đang bước sang kỷ nguyên của tự động hóa trong hỗ trợ sinh sản: Những ứng dụng trong phân tích tinh trùng, thao tác noãn và thụ tinh (Phần 1) - Ngày đăng: 14-11-2022
Kết quả ICSI sử dụng mẫu tinh trùng tươi và đông lạnh thu nhận bằng phương pháp PESA - TESA - Ngày đăng: 09-11-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK