Tin tức
on Saturday 03-12-2022 9:53am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. BS. Đinh Thanh Nhân – Khoa Phụ Sản, BVĐK Gia Đình
Tỷ lệ sinh mổ đang tăng trên toàn cầu. Số liệu này ở Hoa Kỳ là > 30% tổng số ca sinh. Do đó, nhiều phụ nữ phải đối mặt với quyết định xem họ nên cố gắng sinh thường sau mổ lấy thai (VBAC – Vaginal Birth After Ceasarean section) hay chọn phương pháp mổ lấy thai lặp lại (ERCS – Elective Repeat Ceasarean Section).
Kết quả của một nghiên cứu mới đây ở Vương quốc Anh có thể giúp họ đưa ra lựa chọn sáng suốt hơn. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những phụ nữ được thực hiện VBAC có nguy cơ cao hơn gấp 2 lần bị rối loạn chức năng sàn chậu nghiêm trọng so với những người chọn mổ lấy thai lần thứ hai. Những phát hiện này cung cấp thông tin bổ sung quan trọng để có thể tư vấn cho nhóm phụ nữ đã từng mổ lấy thai trước đây về những nguy cơ và lợi ích liên quan đến lựa chọn phương pháp sinh trong tương lai của họ.
Các hướng dẫn hiện nay đề xuất rằng phụ nữ được lựa chọn VBAC nếu họ không có chống chỉ định sinh ngả âm đạo sau khi được tư vấn về nguy cơ và lợi ích của từng lựa chọn. Bằng cách sinh ngả âm đạo, phụ nữ tránh được các biến chứng tiềm ẩn của phẫu thuật, như nhiễm trùng, mất máu, rút ngắn thời gian nằm viện và nuôi con bằng sữa mẹ tốt hơn. Nhưng VBAC cũng có những nguy cơ: nhiễm trùng, mất máu và trong một số trường hợp hiếm có thể vỡ vết mổ cũ. Điều này có thể gây chảy máu tử cung và suy thai, đe dọa tính mạng của sản phụ và thai nhi.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Oxford và Đại học Aberdeen đã tiến hành một nghiên cứu thuần tập các ca sinh đủ tháng ở những phụ nữ đã mổ lấy thai ≥ 1 lần từ năm 1983 - 1996. Trong số 47.414 phụ nữ tham gia, đã có 1159 người (2,44%) cần được thực hiện phẫu thuật sàn chậu trong thời gian nghiên cứu. Tỷ lệ của các phẫu thuật này ở phụ nữ trong nhóm VBAC là 1,75/1000 ca sinh, so với 0,66/1000 ở những phụ nữ trong nhóm ERCS.
Sau khi điều chỉnh các yếu tố liên quan về nhân khẩu học, sản khoa và tình trạng sức khỏe của sản phụ, nguy cơ phải trải qua bất kỳ loại phẫu thuật sàn chậu nào ở những phụ nữ đã lên kế hoạch cho VBAC cao hơn gấp đôi so với những người đã chọn ERCS.
Trong số những trường hợp cần phẫu thuật, các chẩn đoán phổ biến nhất là sa tạng chậu (53%) và són tiểu (46%), với tỷ số nguy cơ điều chỉnh lần lượt là 3,17 (CI 95%, 2,47 - 4,09) và 2,26 (CI 95%, 1,79 - 2,84). Trong số những phụ nữ đã lên kế hoạch VBAC nhưng cuối cùng lại yêu cầu mổ lấy thai lặp lại do chuyển dạ sinh thất bại, nguy cơ phải trải qua phẫu thuật vùng chậu tương tự như ở những phụ nữ đã lên kế hoạch ERCS.
Trong khi đó, các hướng dẫn hiện tại tập trung vào các biến chứng ngắn hạn như nguy cơ vỡ tử cung, nghiên cứu này giúp xác định tầm quan trọng của kết quả lâu dài của VBAC. Kết quả nghiên cứu này có nên thay đổi cách các nhà lâm sàng sản khoa thảo luận về nguy cơ và lợi ích của VBAC với bệnh nhân của họ không? Có vẻ như câu trả lời dễ dàng là mọi người chỉ nên mổ lấy thai để tránh tổn thương sàn chậu khi sinh con, nhưng điều đó cũng đi kèm với các nguy cơ đã đề cập ở trên. Vì vậy, đối với thai phụ đã có tiền sử mổ lấy thai, luôn cần có sự cân nhắc giữa nguy cơ tổn thương sàn chậu tiềm ẩn liên quan đến sinh qua ngả âm đạo và nguy cơ của phẫu thuật liên quan đến mổ lấy thai.
Nguồn: Fitzpatrick KE, Abdel-Fattah M, Hemelaar J, Kurinczuk JJ, Quigley MA (2022) Planned mode of birth after previous cesarean section and risk of undergoing pelvic floor surgery: A Scottish population-based record linkage cohort study. PLoS Med 19(11): e1004119. https://doi.org/10.1371/journal.pmed.1004119
Tỷ lệ sinh mổ đang tăng trên toàn cầu. Số liệu này ở Hoa Kỳ là > 30% tổng số ca sinh. Do đó, nhiều phụ nữ phải đối mặt với quyết định xem họ nên cố gắng sinh thường sau mổ lấy thai (VBAC – Vaginal Birth After Ceasarean section) hay chọn phương pháp mổ lấy thai lặp lại (ERCS – Elective Repeat Ceasarean Section).
Kết quả của một nghiên cứu mới đây ở Vương quốc Anh có thể giúp họ đưa ra lựa chọn sáng suốt hơn. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những phụ nữ được thực hiện VBAC có nguy cơ cao hơn gấp 2 lần bị rối loạn chức năng sàn chậu nghiêm trọng so với những người chọn mổ lấy thai lần thứ hai. Những phát hiện này cung cấp thông tin bổ sung quan trọng để có thể tư vấn cho nhóm phụ nữ đã từng mổ lấy thai trước đây về những nguy cơ và lợi ích liên quan đến lựa chọn phương pháp sinh trong tương lai của họ.
Các hướng dẫn hiện nay đề xuất rằng phụ nữ được lựa chọn VBAC nếu họ không có chống chỉ định sinh ngả âm đạo sau khi được tư vấn về nguy cơ và lợi ích của từng lựa chọn. Bằng cách sinh ngả âm đạo, phụ nữ tránh được các biến chứng tiềm ẩn của phẫu thuật, như nhiễm trùng, mất máu, rút ngắn thời gian nằm viện và nuôi con bằng sữa mẹ tốt hơn. Nhưng VBAC cũng có những nguy cơ: nhiễm trùng, mất máu và trong một số trường hợp hiếm có thể vỡ vết mổ cũ. Điều này có thể gây chảy máu tử cung và suy thai, đe dọa tính mạng của sản phụ và thai nhi.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Oxford và Đại học Aberdeen đã tiến hành một nghiên cứu thuần tập các ca sinh đủ tháng ở những phụ nữ đã mổ lấy thai ≥ 1 lần từ năm 1983 - 1996. Trong số 47.414 phụ nữ tham gia, đã có 1159 người (2,44%) cần được thực hiện phẫu thuật sàn chậu trong thời gian nghiên cứu. Tỷ lệ của các phẫu thuật này ở phụ nữ trong nhóm VBAC là 1,75/1000 ca sinh, so với 0,66/1000 ở những phụ nữ trong nhóm ERCS.
Sau khi điều chỉnh các yếu tố liên quan về nhân khẩu học, sản khoa và tình trạng sức khỏe của sản phụ, nguy cơ phải trải qua bất kỳ loại phẫu thuật sàn chậu nào ở những phụ nữ đã lên kế hoạch cho VBAC cao hơn gấp đôi so với những người đã chọn ERCS.
Trong số những trường hợp cần phẫu thuật, các chẩn đoán phổ biến nhất là sa tạng chậu (53%) và són tiểu (46%), với tỷ số nguy cơ điều chỉnh lần lượt là 3,17 (CI 95%, 2,47 - 4,09) và 2,26 (CI 95%, 1,79 - 2,84). Trong số những phụ nữ đã lên kế hoạch VBAC nhưng cuối cùng lại yêu cầu mổ lấy thai lặp lại do chuyển dạ sinh thất bại, nguy cơ phải trải qua phẫu thuật vùng chậu tương tự như ở những phụ nữ đã lên kế hoạch ERCS.
Trong khi đó, các hướng dẫn hiện tại tập trung vào các biến chứng ngắn hạn như nguy cơ vỡ tử cung, nghiên cứu này giúp xác định tầm quan trọng của kết quả lâu dài của VBAC. Kết quả nghiên cứu này có nên thay đổi cách các nhà lâm sàng sản khoa thảo luận về nguy cơ và lợi ích của VBAC với bệnh nhân của họ không? Có vẻ như câu trả lời dễ dàng là mọi người chỉ nên mổ lấy thai để tránh tổn thương sàn chậu khi sinh con, nhưng điều đó cũng đi kèm với các nguy cơ đã đề cập ở trên. Vì vậy, đối với thai phụ đã có tiền sử mổ lấy thai, luôn cần có sự cân nhắc giữa nguy cơ tổn thương sàn chậu tiềm ẩn liên quan đến sinh qua ngả âm đạo và nguy cơ của phẫu thuật liên quan đến mổ lấy thai.
Nguồn: Fitzpatrick KE, Abdel-Fattah M, Hemelaar J, Kurinczuk JJ, Quigley MA (2022) Planned mode of birth after previous cesarean section and risk of undergoing pelvic floor surgery: A Scottish population-based record linkage cohort study. PLoS Med 19(11): e1004119. https://doi.org/10.1371/journal.pmed.1004119
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên quan giữa tuổi vợ với giai đoạn phát triển, hình thái, và khả năng làm tổ của phôi nang tiềm năng: một nghiên cứu đoàn hệ đa trung tâm - Ngày đăng: 01-12-2022
Vô sinh có nguyên nhân từ nữ giới có liên quan đến nguy cơ sinh non và nhẹ cân cao hơn: kết quả từ 117 401 trẻ sinh một sau khi thực hiện IVF - Ngày đăng: 01-12-2022
Tác động của sử dụng nền tảng tương tác đa phương tiện đối với mức hiểu biết và tâm lý bệnh nhân trong điều trị hiếm muộn: một nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát - Ngày đăng: 01-12-2022
Các yếu tố nguy cơ liên quan đến sinh non khi thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 26-11-2022
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sống sau trữ - rã của 6167 phôi nang nguyên bội - Ngày đăng: 26-11-2022
Ảnh hưởng của nhiễm khuẩn đến chất lượng tinh trùng và phân mảnh DNA ở nam giới vô sinh có xuất hiện bạch cầu trong tinh dịch - Ngày đăng: 22-11-2022
Tác dụng của Vitamin E dạng uống lên các thông số tinh dịch và kết quả IVF: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm soát giả dược mù đôi - Ngày đăng: 21-11-2022
Vai trò của chuyên viên phôi học trong quy trình chuyển phôi - Ngày đăng: 21-11-2022
Lợi ích lâm sàng đối với việc đông lạnh tinh trùng đơn lẻ trong ICSI: Tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 21-11-2022
Đánh giá hình thái có dự đoán tiềm năng phát triển của noãn không? Tổng quan hệ thống và đề xuất thang điểm đánh giá - Ngày đăng: 21-11-2022
Kéo dài thời gian điều trị letrozole có hiệu quả trong việc gây rụng trứng ở phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang và kháng letrozole - Ngày đăng: 14-11-2022
Sự giao tiếp giữa mẹ và phôi - Ngày đăng: 14-11-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK