Tin tức
on Friday 17-06-2022 4:58pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Vào thời điểm N5-N6 sau thụ tinh, phôi người đạt đến giai đoạn phôi nang của phát triển tiền làm tổ và đến tử cung để bắt đầu sự giao tiếp với nội mạc tử cung của mẹ. Ngày nay, việc nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang đã trở thành một thực hành thường quy trong IVF. Thế nhưng đối với bệnh nhân bắt đầu một chu kì chuyển phôi nang, thành công vẫn chưa thể chắc chắn. Lệch bội được xác định là yếu tố di truyền chính dẫn đến sự thất bại làm tổ. Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho thể lệch bội (PGT-A) thường được thực hiện cho bệnh nhân IVF nhằm tăng tỉ lệ có thai trên mỗi lần chuyển đơn phôi và giảm thời gian mang thai. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng chuyển phôi nang N5 đạt tỉ lệ có thai cao hơn chuyển phôi nang N6, cho thấy khả năng sống được cải thiện cho phôi phát triển nhanh hơn. Trong nghiên cứu này, kết quả PGT-A dựa trên next-generation sequencing (NGS) được dùng để so sánh tình trạng bội thể và kết quả lâm sàng giữa phôi nang N5 và N6. Từ đó, chiến lược được đưa ra để sắp xếp ưu tiên và lựa chọn phôi có nhiều khả năng mang thai hơn khi không dùng PGT-A.
Hiện tại, các chỉ định cho PGT-A bao gồm tuổi mẹ cao (advanced maternal age – AMA), thất bại làm tổ liên tiếp (recurrent implantation failture – RIF), yếu tố nam nghiêm trọng (severe male factor – SMF) và các cặp vợ chồng có karyotype bình thường nhưng sẩy thai liên tiếp (recurrent miscarriage – RM).
Đây là một nghiên cứu hồi cứu (T1/2019 – T12/2020) với 2531 phôi nang từ 839 chu kì PGT-A bởi NGS. Trong đó, nhóm (a) là 269 chu kì gồm cả phôi nang N5 (n=716) và N6 (n=443), nhóm (b) là 422 chu kì chỉ có phôi nang N5 (n=1163) và nhóm (c) là 148 chu kì chỉ có phôi nang N6 (n=209). Phác đồ kích thích buồng trứng (ovarian stimulation – OS) được sử dụng là GnRH đồng vận. Mẫu sinh thiết để xét nghiệm PGT-A là ngoại bì lá nuôi (trophectoderm – TE) được lấy vào phôi nang N5 hoặc N6 với xếp loại tốt hơn 3BB. NGS có thể đọc trực tiếp chuỗi DNA phân mảnh và định lượng của chúng. Đối với kết quả lâm sàng, hCG được kiểm tra vào N14 sau chuyển phôi, thai lâm sàng được xác nhận vào 4 tuần sau chuyển phôi, thai diễn tiến là thai >12 tuần. Trẻ sinh sống là sơ sinh được sinh sau 20 tuần thai.
Kết quả cho thấy:
-Bệnh nhân AMA (36,63±4,81 tuổi) ở nhóm c được chỉ định PGT-A là 35,8%, cao nhất khi so với nhóm a (26,4%) và b (26,3%; P=0,02). Bệnh nhân nhóm c cũng có dự trữ buồng trứng kém nhất (AMH=2,33±1,64ng/mL; P<0,001).
-Phụ nữ có nồng độ AMH cao hơn hình thành phôi nang N5 nhiều hơn (OR=1,130; 95% CI: 1,080-1,182; P<0,001).
-Chu kì OS hầu như là nhẹ hơn ở nhóm c (43,2%) khi so với 2 nhóm a và b (20,8% và 37,9%; P<0,001).
-Vào ngày kích thích, nhóm c có nồng độ E2 thấp nhất (1647±1165,22; 2737,98±1709,63 và 2062,09±1444,06 pg/mL; P<0,001).
-Nồng độ LH ở nhóm c lại cao nhất (5,23±4,22; 3,87±3,17 và 4,75±3,74 IU/L, P<0,001).
-Số noãn MII ở 3 nhóm a,b và c lần lượt là 10,57±5,98; 7,41±5,79 và 5,66±4,50 (P<0,001). Số phôi nang sinh thiết là 4,31±2,14; 2,77±2,30 và 1,41±0,61; P<0,001).
-Tỉ lệ nguyên bội của phôi nang N5 dường như cao hơn đáng kể so với phôi nang N6 ngay cả ở cùng chu kì OS (49,9% và 35,7%; P<0,001) hay ở khác chu kì (48,2% và 27,8%; P<0,001).
-Trong cùng chu kì OS, tỉ lệ lệch bội và khảm của phôi nang N5 lần lượt là 31,3% và 19,0% trong khi ở phôi nang N6 là 41,3% và 23,0% (P<0,001). Ở khác chu kì OS, hai tỉ lệ này lần lượt là 37,6% và 14,2% so với 51,2% và 21,0% (P<0,001).
-Tỉ lệ thai lâm sàng, thai sinh hóa, thai diễn tiến ở phôi nang N5 lần lượt là 59%; 7,7% và 73,9% đều cao hơn phôi nang N6 là 44,2%; 7,0% và 63,2%. Tỉ lệ trẻ sinh sống là tương đương giữa 2 nhóm (15,7% và 15,8%).
-Tỉ lệ sẩy thai ở phôi nang N5 là 10,4% thấp hơn ở phôi nang N6 là 21,0%.
Như vậy, ngày hình thành phôi nang có mối tương quan với tình trạng bội thể của chúng. Việc ưu tiên phôi nang N5 hơn N6 sẽ làm tăng cơ hội lựa chọn phôi đơn nguyên bội để chuyển trong chu kì không có PGT. Ngoài ra, giai đoạn của phôi nang sẽ không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng sau chuyển khi chúng đã được xác nhận là phôi nguyên bội.
Tóm lại, tỉ lệ nguyên bội của phôi nang N5 cao hơn đáng kể phôi nang N6 ở phụ nữ dưới 38 tuổi dù có cùng chu kì OS hay không cùng chu kì. Giai đoạn phôi nang không mang ý nghĩa chỉ định của tình trạng nguyên bội ở những chu kì không có PGT-A. Đối với phụ nữ dự trữ buồng trứng kém, đặc biệt lớn tuổi, thường nuôi phôi nang N6 thì PGT-A là lựa chọn tốt hơn để nhận dạng phôi nguyên bội được chuyển.
Nguồn: Tong J, Niu Y, Wan A và cộng sự. Comparison of day 5 blastocyst with day 6 blastocyst: Evidence from NGS-based PGT-A results. 2022 Jan 5.
Vào thời điểm N5-N6 sau thụ tinh, phôi người đạt đến giai đoạn phôi nang của phát triển tiền làm tổ và đến tử cung để bắt đầu sự giao tiếp với nội mạc tử cung của mẹ. Ngày nay, việc nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang đã trở thành một thực hành thường quy trong IVF. Thế nhưng đối với bệnh nhân bắt đầu một chu kì chuyển phôi nang, thành công vẫn chưa thể chắc chắn. Lệch bội được xác định là yếu tố di truyền chính dẫn đến sự thất bại làm tổ. Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho thể lệch bội (PGT-A) thường được thực hiện cho bệnh nhân IVF nhằm tăng tỉ lệ có thai trên mỗi lần chuyển đơn phôi và giảm thời gian mang thai. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng chuyển phôi nang N5 đạt tỉ lệ có thai cao hơn chuyển phôi nang N6, cho thấy khả năng sống được cải thiện cho phôi phát triển nhanh hơn. Trong nghiên cứu này, kết quả PGT-A dựa trên next-generation sequencing (NGS) được dùng để so sánh tình trạng bội thể và kết quả lâm sàng giữa phôi nang N5 và N6. Từ đó, chiến lược được đưa ra để sắp xếp ưu tiên và lựa chọn phôi có nhiều khả năng mang thai hơn khi không dùng PGT-A.
Hiện tại, các chỉ định cho PGT-A bao gồm tuổi mẹ cao (advanced maternal age – AMA), thất bại làm tổ liên tiếp (recurrent implantation failture – RIF), yếu tố nam nghiêm trọng (severe male factor – SMF) và các cặp vợ chồng có karyotype bình thường nhưng sẩy thai liên tiếp (recurrent miscarriage – RM).
Đây là một nghiên cứu hồi cứu (T1/2019 – T12/2020) với 2531 phôi nang từ 839 chu kì PGT-A bởi NGS. Trong đó, nhóm (a) là 269 chu kì gồm cả phôi nang N5 (n=716) và N6 (n=443), nhóm (b) là 422 chu kì chỉ có phôi nang N5 (n=1163) và nhóm (c) là 148 chu kì chỉ có phôi nang N6 (n=209). Phác đồ kích thích buồng trứng (ovarian stimulation – OS) được sử dụng là GnRH đồng vận. Mẫu sinh thiết để xét nghiệm PGT-A là ngoại bì lá nuôi (trophectoderm – TE) được lấy vào phôi nang N5 hoặc N6 với xếp loại tốt hơn 3BB. NGS có thể đọc trực tiếp chuỗi DNA phân mảnh và định lượng của chúng. Đối với kết quả lâm sàng, hCG được kiểm tra vào N14 sau chuyển phôi, thai lâm sàng được xác nhận vào 4 tuần sau chuyển phôi, thai diễn tiến là thai >12 tuần. Trẻ sinh sống là sơ sinh được sinh sau 20 tuần thai.
Kết quả cho thấy:
-Bệnh nhân AMA (36,63±4,81 tuổi) ở nhóm c được chỉ định PGT-A là 35,8%, cao nhất khi so với nhóm a (26,4%) và b (26,3%; P=0,02). Bệnh nhân nhóm c cũng có dự trữ buồng trứng kém nhất (AMH=2,33±1,64ng/mL; P<0,001).
-Phụ nữ có nồng độ AMH cao hơn hình thành phôi nang N5 nhiều hơn (OR=1,130; 95% CI: 1,080-1,182; P<0,001).
-Chu kì OS hầu như là nhẹ hơn ở nhóm c (43,2%) khi so với 2 nhóm a và b (20,8% và 37,9%; P<0,001).
-Vào ngày kích thích, nhóm c có nồng độ E2 thấp nhất (1647±1165,22; 2737,98±1709,63 và 2062,09±1444,06 pg/mL; P<0,001).
-Nồng độ LH ở nhóm c lại cao nhất (5,23±4,22; 3,87±3,17 và 4,75±3,74 IU/L, P<0,001).
-Số noãn MII ở 3 nhóm a,b và c lần lượt là 10,57±5,98; 7,41±5,79 và 5,66±4,50 (P<0,001). Số phôi nang sinh thiết là 4,31±2,14; 2,77±2,30 và 1,41±0,61; P<0,001).
-Tỉ lệ nguyên bội của phôi nang N5 dường như cao hơn đáng kể so với phôi nang N6 ngay cả ở cùng chu kì OS (49,9% và 35,7%; P<0,001) hay ở khác chu kì (48,2% và 27,8%; P<0,001).
-Trong cùng chu kì OS, tỉ lệ lệch bội và khảm của phôi nang N5 lần lượt là 31,3% và 19,0% trong khi ở phôi nang N6 là 41,3% và 23,0% (P<0,001). Ở khác chu kì OS, hai tỉ lệ này lần lượt là 37,6% và 14,2% so với 51,2% và 21,0% (P<0,001).
-Tỉ lệ thai lâm sàng, thai sinh hóa, thai diễn tiến ở phôi nang N5 lần lượt là 59%; 7,7% và 73,9% đều cao hơn phôi nang N6 là 44,2%; 7,0% và 63,2%. Tỉ lệ trẻ sinh sống là tương đương giữa 2 nhóm (15,7% và 15,8%).
-Tỉ lệ sẩy thai ở phôi nang N5 là 10,4% thấp hơn ở phôi nang N6 là 21,0%.
Như vậy, ngày hình thành phôi nang có mối tương quan với tình trạng bội thể của chúng. Việc ưu tiên phôi nang N5 hơn N6 sẽ làm tăng cơ hội lựa chọn phôi đơn nguyên bội để chuyển trong chu kì không có PGT. Ngoài ra, giai đoạn của phôi nang sẽ không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng sau chuyển khi chúng đã được xác nhận là phôi nguyên bội.
Tóm lại, tỉ lệ nguyên bội của phôi nang N5 cao hơn đáng kể phôi nang N6 ở phụ nữ dưới 38 tuổi dù có cùng chu kì OS hay không cùng chu kì. Giai đoạn phôi nang không mang ý nghĩa chỉ định của tình trạng nguyên bội ở những chu kì không có PGT-A. Đối với phụ nữ dự trữ buồng trứng kém, đặc biệt lớn tuổi, thường nuôi phôi nang N6 thì PGT-A là lựa chọn tốt hơn để nhận dạng phôi nguyên bội được chuyển.
Nguồn: Tong J, Niu Y, Wan A và cộng sự. Comparison of day 5 blastocyst with day 6 blastocyst: Evidence from NGS-based PGT-A results. 2022 Jan 5.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Dự đoán tỉ lệ phôi làm tổ chỉ dựa trên tham số thời gian hình thành phôi nang (tSB) - Ngày đăng: 17-06-2022
Tinh trùng Necrozoospermia: cơ chế bệnh sinh và hướng tiếp cận trong IVF - Ngày đăng: 17-06-2022
Kết quả lâm sàng của truyền huyết tương giàu tiểu cầu vào tử cung ở bệnh nhân bị thất bại làm tổ liên tiếp - Ngày đăng: 17-06-2022
Noãn thoái hóa sau ICSI không phải là một chỉ số để dự đoán tỷ lệ sinh sống ở trường hợp phụ nữ trẻ tuổi - Ngày đăng: 14-06-2022
Kết quả thụ tinh, nuôi Kết quả thụ tinh, nuôi cấy phôi và lâm sàng sử dụng môi trường nuôi cấy có nồng độ Lactate thấp cấy phôi và lâm sàng sử dụng môi trường nuôi cấy có nồng độ Lactate thấp - Ngày đăng: 09-06-2022
Tổng quan các yếu tố ảnh hưởng khả năng làm tổ của phôi nang nguyên bội sau IVF - Ngày đăng: 09-06-2022
Huyết tương giàu tiểu cầu cải thiện độ dày nội mạc tử cung và tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần và nội mạc tử cung mỏng - Ngày đăng: 09-06-2022
Hiệu quả của các phác đồ điều hòa giảm khác nhau trong thụ tinh trong ống nghiệm ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung: Một phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 09-06-2022
Nhiễm SARS-CoV-2 trong tam cá nguyệt đầu và nguy cơ sẩy thai sớm: một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên dân số Anh với 3041 trường hợp mang thai trong đại dịch - Ngày đăng: 09-06-2022
Tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn sau IVF/ICSI với tinh trùng được chuẩn bị bằng ly tâm thang nồng độ so với swim-up: một nghiên cứu hồi cứu sử dụng phương pháp phân tích so khớp điểm xu hướng (propensity score-matching) - Ngày đăng: 04-06-2022
Mối quan hệ giữa yếu tố cha và thể lệch bội ở phôi có nguồn gốc từ cha - Ngày đăng: 04-06-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK