Tin tức
on Tuesday 24-05-2022 2:38pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi – IVFMD Tân Bình
Tinh trùng với chất lượng DNA (DNAq) bình thường là một trong những yếu tố quan trọng cho khả năng mang thai. Thật vậy, nhiều bằng chứng cho thấy DNAq thấp làm giảm tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng thuận về hướng dẫn cũng như ưu nhược điểm và giá trị tương đối của DNAq giữa các xét nghiệm khác nhau. Một số xét nghiệm phổ biến xác định DNAq thường được sử dụng ở các cơ sở nam khoa như TUNEL, Comet, sự phân tán nhiễm sắc chất của tinh trùng (SCD) và nhuộm acridine da cam (AO). Mặc dù những xét nghiệm này được kỳ vọng là thích hợp để phát hiện các biểu hiện định tính và định lượng bất thường DNAq của tinh trùng nhưng chúng lại không thể xác định các yếu tố khác ảnh hưởng đến DNA tinh trùng như độ dài telomere.
Gần đây, có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng tìm hiểu hiệu quả của việc lựa chọn tinh trùng dựa trên axit hyaluronic trước khi thực hiện ICSI, bao gồm cả thử nghiệm lâm sàng HABSelect (Hyaluronic Acid Binding sperm Selection). Các thử nghiệm này liên tục báo cáo việc giảm số lần sẩy thai giữa các cặp vợ chồng tham gia ngẫu nhiên. Điều này cho thấy các yếu tố bệnh lý trung gian của tinh trùng đã được giảm thiểu bởi liên kết HA trước đó, tuy nhiên cơ chế này vẫn chưa được hiểu rõ.
Axit hyaluronic (HA) là một trong những thành phần chính của chất nền ngoại bào bao quanh OCC (oocyte–cumulus complex). Tinh trùng liên kết với HA được báo cáo là trưởng thành hơn, DNAq và sự nén chặt DNA tốt hơn, tế bào chất sót lại ít hơn. Điểm liên kết HA (HA-binding score: HBS) của một mẫu tinh trùng được xác định bằng phần trăm tinh trùng bám vào bề mặt cố định ở trạng thái rắn. Dựa vào mật độ và độ di động của tinh trùng ở mỗi lần xuất tinh mà bề mặt HA được bao phủ khác nhau. Một số nghiên cứu chỉ ra sự tương ứng giữa HBS và các phép đo tiêu chuẩn về chức năng của tinh trùng dựa trên tiêu chí của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho thấy những người đàn ông có HBS thấp một cách bất thường thường khó có con.
Một số lập luận cho rằng tác động đáng kể của PICSI (Physiological IntraCytoplasmic Sperm Injection) đối với việc tránh sẩy thai trong thử nghiệm lâm sàng HABSelect có thể là một sự kiện ngẫu nhiên. Tuy nhiên, báo cáo này sẽ bổ sung bằng chứng cập nhật rằng HBS và DNAq thấp có liên quan đến chất lượng tinh trùng giảm, ảnh hưởng đến kết quả điều trị trong suốt thời gian mang thai. Bên cạnh đó, khẳng định rằng lựa chọn tinh trùng bằng HA giúp giảm thiểu tác động có hại của DNA tinh trùng bị hư hỏng đối với kết quả điều trị cuối cùng, đặc biệt ở phụ nữ lớn tuổi. Ngoài ra, báo cáo cũng xem xét mức độ phù hợp và hữu ích của các biện pháp HBS và DNAq liên quan đến phân tích tinh dịch tiêu chuẩn và kết quả điều trị.
Giai đoạn 3 của thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng HABSelect được tiến hành từ năm 2014 đến năm 2017. Tổng cộng 2752 cặp vợ chồng với mẫu tinh trùng thu nhận được chia làm 2 nhóm: nhóm đối chứng (ICSI) và nhóm thực hiện PICSI để xét nghiệm DNAq. Nghiên cứu này được thực hiện trùng lặp (2016-2018) với một phần trong thử nghiệm trên. Vì giảm sẩy thai là một kết quả phụ quan trọng của thử nghiệm nên 1247 mẫu được chọn để phân tích từ tổng số 154 trường hợp sẩy thai (5,6%) trong số tất cả 2752 cặp vợ chồng được ngẫu nhiên hóa bằng cách lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng. Các giá trị từ mẫu tinh dịch tươi về mật độ tinh trùng (mml), phần trăm di động tiến tới và phần trăm HBS được ghi nhận trước khi xử lý qua ly tâm thang nồng độ gradient không liên tục hoặc (hiếm khi) bằng phương pháp bơi lên vào ngày điều trị. Cặn tinh trùng thừa được thu hồi và bảo quản lạnh để về sau phân tích DNAq qua các xét nghiệm Comet, TUNEL, AO và SCD. Sau khi phân loại mẫu thành các danh mục phụ gồm mẫu bình thường và bất thường dựa trên các giá trị tham chiếu cho nồng độ và khả năng vận động của tinh trùng, mối quan hệ với HBS và DNAq được kiểm tra bằng tương quan Spearman, Student’s t test, Mann Whitney U test và hồi quy logistic (đơn biến và đa biến). Việc lựa chọn kỹ lưỡng cho phép phát triển các mô hình để khám phá và giải thích các xu hướng dữ liệu. Sự khác biệt tiềm tàng về tỷ lệ mang thai tích lũy trong tương lai liên quan đến chất lượng phôi cũng đã được khám phá.
Kết quả từ 1247 mẫu tinh trùng được xét nghiệm HBS và / hoặc DNAq, đã tạo ra dữ liệu được xem xét liên quan đến các thước đo sinh lý tiêu chuẩn về sức sống của tinh trùng và kết quả điều trị.
Tóm lại, mặc dù có tác động can thiệp đến tỷ lệ thụ tinh và có thể hình thành phôi nang (cả hai đều không ảnh hưởng đến tỷ lệ có thai), DNAq của tinh trùng kém được phản ánh bởi HBS thấp có thể góp phần làm giảm tất cả các kết quả gồm cả trẻ sinh sống trong thử nghiệm HABSelect. Việc tránh can thiệp tinh trùng bị lỗi là lời giải thích tốt nhất cho sự cân bằng tỷ lệ sinh sống giữa các cặp vợ chồng lớn tuổi được phân ngẫu nhiên vào nhóm PICSI của thử nghiệm. Nhu cầu thực hiện ART trên toàn cầu trong tương lai có thể bị chi phối bởi nhóm dân số lớn tuổi, do đó việc lựa chọn tinh trùng dựa trên HA cho ICSI có thể được coi là một phần trong kế hoạch điều trị của họ.
Nguồn: Robert West, Arri Coomarasamy, Lorraine Frew, Rachel Hutton, Jackson Kirkman-Brown, Martin Lawlor, Sheena Lewis, Riitta Partanen, Alex Payne-Dwyer, Claudia Román-Montañana, Forough Torabi, Sofia Tsagdi, David Miller, Sperm selection with hyaluronic acid improved live birth outcomes among older couples and was connected to sperm DNA quality, potentially affecting all treatment outcomes, Human Reproduction, 2022;, deac058, https://doi.org/10.1093/humrep/deac058
Tinh trùng với chất lượng DNA (DNAq) bình thường là một trong những yếu tố quan trọng cho khả năng mang thai. Thật vậy, nhiều bằng chứng cho thấy DNAq thấp làm giảm tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng thuận về hướng dẫn cũng như ưu nhược điểm và giá trị tương đối của DNAq giữa các xét nghiệm khác nhau. Một số xét nghiệm phổ biến xác định DNAq thường được sử dụng ở các cơ sở nam khoa như TUNEL, Comet, sự phân tán nhiễm sắc chất của tinh trùng (SCD) và nhuộm acridine da cam (AO). Mặc dù những xét nghiệm này được kỳ vọng là thích hợp để phát hiện các biểu hiện định tính và định lượng bất thường DNAq của tinh trùng nhưng chúng lại không thể xác định các yếu tố khác ảnh hưởng đến DNA tinh trùng như độ dài telomere.
Gần đây, có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng tìm hiểu hiệu quả của việc lựa chọn tinh trùng dựa trên axit hyaluronic trước khi thực hiện ICSI, bao gồm cả thử nghiệm lâm sàng HABSelect (Hyaluronic Acid Binding sperm Selection). Các thử nghiệm này liên tục báo cáo việc giảm số lần sẩy thai giữa các cặp vợ chồng tham gia ngẫu nhiên. Điều này cho thấy các yếu tố bệnh lý trung gian của tinh trùng đã được giảm thiểu bởi liên kết HA trước đó, tuy nhiên cơ chế này vẫn chưa được hiểu rõ.
Axit hyaluronic (HA) là một trong những thành phần chính của chất nền ngoại bào bao quanh OCC (oocyte–cumulus complex). Tinh trùng liên kết với HA được báo cáo là trưởng thành hơn, DNAq và sự nén chặt DNA tốt hơn, tế bào chất sót lại ít hơn. Điểm liên kết HA (HA-binding score: HBS) của một mẫu tinh trùng được xác định bằng phần trăm tinh trùng bám vào bề mặt cố định ở trạng thái rắn. Dựa vào mật độ và độ di động của tinh trùng ở mỗi lần xuất tinh mà bề mặt HA được bao phủ khác nhau. Một số nghiên cứu chỉ ra sự tương ứng giữa HBS và các phép đo tiêu chuẩn về chức năng của tinh trùng dựa trên tiêu chí của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho thấy những người đàn ông có HBS thấp một cách bất thường thường khó có con.
Một số lập luận cho rằng tác động đáng kể của PICSI (Physiological IntraCytoplasmic Sperm Injection) đối với việc tránh sẩy thai trong thử nghiệm lâm sàng HABSelect có thể là một sự kiện ngẫu nhiên. Tuy nhiên, báo cáo này sẽ bổ sung bằng chứng cập nhật rằng HBS và DNAq thấp có liên quan đến chất lượng tinh trùng giảm, ảnh hưởng đến kết quả điều trị trong suốt thời gian mang thai. Bên cạnh đó, khẳng định rằng lựa chọn tinh trùng bằng HA giúp giảm thiểu tác động có hại của DNA tinh trùng bị hư hỏng đối với kết quả điều trị cuối cùng, đặc biệt ở phụ nữ lớn tuổi. Ngoài ra, báo cáo cũng xem xét mức độ phù hợp và hữu ích của các biện pháp HBS và DNAq liên quan đến phân tích tinh dịch tiêu chuẩn và kết quả điều trị.
Giai đoạn 3 của thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng HABSelect được tiến hành từ năm 2014 đến năm 2017. Tổng cộng 2752 cặp vợ chồng với mẫu tinh trùng thu nhận được chia làm 2 nhóm: nhóm đối chứng (ICSI) và nhóm thực hiện PICSI để xét nghiệm DNAq. Nghiên cứu này được thực hiện trùng lặp (2016-2018) với một phần trong thử nghiệm trên. Vì giảm sẩy thai là một kết quả phụ quan trọng của thử nghiệm nên 1247 mẫu được chọn để phân tích từ tổng số 154 trường hợp sẩy thai (5,6%) trong số tất cả 2752 cặp vợ chồng được ngẫu nhiên hóa bằng cách lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng. Các giá trị từ mẫu tinh dịch tươi về mật độ tinh trùng (mml), phần trăm di động tiến tới và phần trăm HBS được ghi nhận trước khi xử lý qua ly tâm thang nồng độ gradient không liên tục hoặc (hiếm khi) bằng phương pháp bơi lên vào ngày điều trị. Cặn tinh trùng thừa được thu hồi và bảo quản lạnh để về sau phân tích DNAq qua các xét nghiệm Comet, TUNEL, AO và SCD. Sau khi phân loại mẫu thành các danh mục phụ gồm mẫu bình thường và bất thường dựa trên các giá trị tham chiếu cho nồng độ và khả năng vận động của tinh trùng, mối quan hệ với HBS và DNAq được kiểm tra bằng tương quan Spearman, Student’s t test, Mann Whitney U test và hồi quy logistic (đơn biến và đa biến). Việc lựa chọn kỹ lưỡng cho phép phát triển các mô hình để khám phá và giải thích các xu hướng dữ liệu. Sự khác biệt tiềm tàng về tỷ lệ mang thai tích lũy trong tương lai liên quan đến chất lượng phôi cũng đã được khám phá.
Kết quả từ 1247 mẫu tinh trùng được xét nghiệm HBS và / hoặc DNAq, đã tạo ra dữ liệu được xem xét liên quan đến các thước đo sinh lý tiêu chuẩn về sức sống của tinh trùng và kết quả điều trị.
- Tất cả các phép đo HBS và DNAq đều phân biệt mẫu tinh trùng bình thường với mẫu tinh trùng bất thường (P <0,001). Xét nghiệm SCD có tương quan nghịch với xét nghiệm Comet (r = −0,165; P <0,001) và TUNEL (r = −0,200; P <0,001).
- Xét nghiệm HBS tương quan nghịch với xét nghiệm AO (r = −0,211; P <0,001), Comet (r = −0,127; P <0,001) và TUNEL (r = −0,214; P <0,001), tương quan thuận với xét nghiệm SCD (r = 0,255; P < 0,001).
- Một mô hình dự đoán tỷ lệ sinh sống và sẩy thai bao gồm phân bổ điều trị (tỷ lệ chênh lệch (OR) 2,167, KTC 95% 1,084-4,464, P = 0,031), tuổi nữ (OR 0,301, KTC 95% 0,133–0,761, P = 0,013, mỗi thập kỷ) và xét nghiệm AO (OR 0,79, KTC 95% 0,60–1,02, P = 0,073, mỗi 10 điểm tăng).
- Một mô hình dự đoán tỷ lệ mang thai sinh hóa mong đợi bao gồm tuổi nam (OR 0,464, KTC 95% 0,314–0,674, P <0,001, mỗi thập kỷ) và xét nghiệm SCD (OR 1,04, KTC 95% 1,007–1,075, P = 0,018, mỗi 10 điểm).
- Một mô hình chuyển đổi từ thai sinh hóa sang thai lâm sàng không giữ lại bất kỳ biến số bệnh nhân hoặc xét nghiệm quan trọng nào.
- Một mô hình cho tỷ lệ thụ tinh sau tiêm bao gồm phân bổ điều trị (OR 0,83, KTC 95% 0,75–0,91, P <0,001) và xét nghiệm Comet (OR 0,950, KTC 95% 0,91–1,00, P = 0,041).
Tóm lại, mặc dù có tác động can thiệp đến tỷ lệ thụ tinh và có thể hình thành phôi nang (cả hai đều không ảnh hưởng đến tỷ lệ có thai), DNAq của tinh trùng kém được phản ánh bởi HBS thấp có thể góp phần làm giảm tất cả các kết quả gồm cả trẻ sinh sống trong thử nghiệm HABSelect. Việc tránh can thiệp tinh trùng bị lỗi là lời giải thích tốt nhất cho sự cân bằng tỷ lệ sinh sống giữa các cặp vợ chồng lớn tuổi được phân ngẫu nhiên vào nhóm PICSI của thử nghiệm. Nhu cầu thực hiện ART trên toàn cầu trong tương lai có thể bị chi phối bởi nhóm dân số lớn tuổi, do đó việc lựa chọn tinh trùng dựa trên HA cho ICSI có thể được coi là một phần trong kế hoạch điều trị của họ.
Nguồn: Robert West, Arri Coomarasamy, Lorraine Frew, Rachel Hutton, Jackson Kirkman-Brown, Martin Lawlor, Sheena Lewis, Riitta Partanen, Alex Payne-Dwyer, Claudia Román-Montañana, Forough Torabi, Sofia Tsagdi, David Miller, Sperm selection with hyaluronic acid improved live birth outcomes among older couples and was connected to sperm DNA quality, potentially affecting all treatment outcomes, Human Reproduction, 2022;, deac058, https://doi.org/10.1093/humrep/deac058
Các tin khác cùng chuyên mục:
Kết quả IVF của phôi từng bị từ chối chuyển do có bất thường sinh thiết PGT-A: một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - Ngày đăng: 24-05-2022
Tỉ lệ trẻ sinh sống trong trường hợp có hoặc không có xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phôi lệch bội - Ngày đăng: 24-05-2022
Ảnh hưởng của kỹ thuật sinh thiết và thao tác trên mẫu đến kết quả xét nghiệm di truyền phôi - Ngày đăng: 24-05-2022
Mối liên hệ giữa sự đa hình của yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu và thất bại làm tổ nhiều lần: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 23-05-2022
Điều trị điều hòa miễn dịch giúp cải thiện đáng kể kết quả sinh sản ở những phụ nữ bị sẩy thai liên tiếp và thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 23-05-2022
Mối quan hệ giữa số lần sinh con với tuổi mãn kinh tự nhiên: một nghiên cứu trên 310.147 phụ nữ ở Na Uy - Ngày đăng: 18-05-2022
Điều trị các triệu chứng của u xơ cơ tử cung bằng liệu pháp kết hợp Relugolix - Ngày đăng: 18-05-2022
Tỉ lệ lệch bội và kết quả thai lâm sàng ở những cặp vợ chồng sẩy thai liên tiếp chưa rõ nguyên nhân mang đa hình nhiễm sắc thể có PGT-A - Ngày đăng: 17-05-2022
Kết quả mang thai sau chuyển phôi đông lạnh (IVF-FET) có thực hiện và không thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ sàng lọc phôi lệch bội (PGT-A) ở những phụ nữ bị sẩy thai liên tiếp (RPL): nghiên cứu SART-CORS - Ngày đăng: 17-05-2022
Chỉ số khối cơ thể ở người nam cao hơn bình thường sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh và sự phát triển của phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 17-05-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK